Thứ Ba, 4 tháng 1, 2011

Phạm Duy: Tình yêu tự do

Tác giả : Vô Danh

Năm 1951, trên đài phát thanh Sài Gòn, trong một chương trình mà người dẫn là nhà văn Nguyễn Đình Toàn, Phạm Duy đã trả lời về ý nghĩa của tác phẩm của mình. Đối với ông, cuộc đời ông có ba điều quan trọng: tình yêu, nỗi đau và cái chết[1]. Trong hơn nửa thế kỷ, Phạm Duy vẫn luôn trung thành với khẩu hiệu này, ông dùng tình yêu để hâm nóng hai thứ còn lại, nỗi đau về nơi chôn nhau cắt rốn và sự biến mất của thân xác đang đến gần, dù không bao giờ khước từ tự do cá nhân. 

Sự biến đổi của các định nghĩa của nhạc sĩ về tự do khiến chúng ta quan tâm bởi nó liên hệ máu thịt với lịch sử Việt Nam đương đại và tầm vóc lịch sử càng lớn hơn khi âm nhạc của ông có ảnh hưởng quốc gia. Vị thế xã hội trung tâm của ông dịch chuyển giữa việc làm chứng trực tiếp và việc tiếp nhận tác phẩm của ông từ phía người dân, đồng thời, vị thế đó trở thành một cách định danh tập thể trước ẩn số và sự tàn khốc của cuộc chiến. 

Là một nhạc sĩ có tầm cỡ với đầu óc cởi mở Phạm Duy nhận thức mình là một « sự kiện quốc gia », sáng tác và quan điểm của ông có tầm ảnh hưởng rất lớn trong đời sống xã hội và  nghệ thuật của đất nước. Trong bài hát Những điều tôi biết trong đời tôi, ông tự do thể hiện để đúc kết nên một hiểu biết tập thể về những ngờ vực của riêng ông về cuộc sống và về xã hội loài người :

...Ai biết ai thương người suốt một đời? …
Tôi biết cớ sao người ghét người hoài …
Không ai yêu ai, nên không ai vui …
Tôi hát câu ca, câu ca yêu đời

Bằng cách thắp lên ngọn đèn tình yêu như là niềm hy vọng trong đêm tối chiến tranh và bằng cách hát lên giai điệu tình yêu nơi giao nhau của một thế giới trong đó con người đã cảm thấy ghê tởm đối với chính con người, Phạm Duy đi theo hướng của Sartre: “Con người về cơ bản là khát khao tồn tại”[2], chủ nghĩa hiện sinh trong cách nói này : “Khát khao là sự thiếu”. Hy vọng cũng chính là sự thiếu, giữa sự không biết và sự chờ đợi. 

Tình yêu tự do trước thử thách tàn khốc của lịch sử thỉnh thoảng cho phép Phạm Duy cảm thấy ghê tởm trước những trắc ẩn của con người. Trong chiến tranh chống Mỹ tại Việt Nam, vào năm 1970, vào đêm Noel, ông đứng trên một trong những cái tháp cao nhất New York. Phía dưới kia, trong phố xá đông người, người Mỹ đang vui vẻ bận bịu việc mua sắm cho dịp Giáng Sinh, trong phòng của ông ở khách sạn, trên trang nhất một tờ báo : lính Mỹ thảm sát làng Mỹ Lai ở miền Trung Việt Nam. Trong đầu ông tái hiện ngay tức thì hình ảnh của Bà mẹ Gio Linh : bà đang ra chợ để tìm lại đầu của đứa con trai bị lính Pháp xử trảm hơn ba mươi năm trước. Chuyện lại xảy ra bất ngờ và bi kịch với cùng một nạn nhân: người dân nước ông. Trong bài hát Kể chuyện đi xa,  ông khẳng định một trong những quyền tự do của con người là tự vấn về nên văn minh và nhất là hoài nghi về cái người ta gọi là tiến bộ :

 … Ôi ! Mỹ Lai thành quà tặng No-en, cho những thiên đường của từng con em trong những gia đình gọi là văn minh …

Với sự tự do này, Phạm Duy lục lọi trong tâm trí để tìm ra những nỗi lo, những nỗi lo này, thật lạ, sẽ mang lại cho ông sức mạnh để gặp gỡ đất nước  mình một cách khác, với một cái nhìn từ phía ngoài, đồng thời chấp nhận rằng ông không còn ảo tưởng về thế giới (bên ngoài) nữa, thế giới này không biết gì về sự hấp hối của cả dân tộc :

Đất nước hai miền chật chội oan khiên …
Thế giới âm thầm, thủ phạm lâu năm …

Chúng ta nhớ rằng Spinova đi khá xa trong việc định nghĩa niềm hy vọng. Theo ông, hy vọng không phải là gì khác ngoài sự lo âu, thậm chí là sự bất lực, người ta hy vọng thứ mà người ta không có, thứ mà người ta không biết, thứ mà người ta không thể đạt tới.[3]  

Vào đúng thời kỳ đó, giữa chiến tranh liên miên và sự cô độc muôn trùng của con người cá nhân, tình yêu tự do trong hành trình của Phạm Duy được thể hiện trong động từ ra đi. Ra đi có nghĩa là rời bỏ, tự do ra đi – rời bỏ hàm nghĩa tự do khao khát tự do, chúng ta hãy còn nhớ khẩu hiệu nhân học của Lévi-Strauss : « Người hãy rời bỏ mẹ cha và mang cái khuôn vàng thước ngọc cho xã hội”[4]

Thế nhưng, cách nhìn riêng của Phạm Duy còn có vẻ khó nắm bắt trong logic của cuộc chiến thời đó, nơi mà sự lưu đày nội tại trong cái nhìn của ông về những cảnh tượng ghê tởm của chết chóc sớm hay muộn sẽ đưa ông tới cảnh lưu đày trong đất nước, từ nơi này sang nơi khác. Sự lưu đày này làm nảy sinh sự bó buộc chung, đó là xét lại toàn diện số phận của đất nước, phải tạo ra những vận động mới, những di chuyển chưa bao giờ thấy trên mảnh đất quả là đã bị tàn phá nhưng sẵn sàng đổi mới, hồi sinh. Trong sự vận động muôn thủa vì cuộc sống, tự do cho chúng ta ngộ ra rằng không ai sở hữu ai, vì sự tự do thực sự rất ghê tởm sự chiếm hữu. 

Năm 1970, Phạm Duy sáng tác ba trường ca xoay quanh một từ khóa : hành (sự di chuyển), kể về sự chuyển động không ngừng. Bài hát thứ nhất tên là Lữ hành miêu tả cuộc sống như một sự khởi hành được tái diễn vô cùng; Bài hát thứ hai, Xuân hành, xem xét bước đi chật chội và yếu ớt trọng cuộc đời con người đối diện với sự mênh mông của đất nước. Và bài hát thứ ba, Dạ hành, cho thấy cái nhìn của nhạc sĩ về những con đường bấp bênh mà dân tộc đã trải qua giữa chế độ quân sự thối nát của miền Nam và chế độ độc tài của miền Bắc, nơi mà mỗi người Việt phải khẳng định sự tự do của mình để tồn tại:

Người đi trong đêm tối, trong đêm thâu…
Người đi không dắt, không ai đưa…
Như đui mắt, như bơ vơ…
Đi trong vòng quanh quanh của bầy ma…

Cuộc sống có sự vận động thì sự sống còn sẽ khả thi. Có ra đi, là có niềm vui. Đó là công thức của Phạm Duy, ông giải thích rằng lần nào cũng có niềm vui vì có khát khao vận động.Ngọn nguồn của tự do và kết quả logic của hành động, khát khao ra đi làm tan biến nỗi sợ về cái chết, thiếu tự do giày vò lòng người. Nếu có sự vận động thì sẽ có niềm vui hành động, niềm hạnh phúc được đi lại từ đầu. Deleuze không nhầm khi đưa ra giả thuyết rằng những chế độ độc tài không sợ trật tự cũng như không sợ luân lý, các chế độ này sợ nhất là sự vận động, sự vận động không thể kiểm soát. Sự vận động chính là sự ra đời của một cuộc sống mới, trong quyết tâm giành quyền được sống ; Phạm Duy hoàn toàn sở hữu niềm tự do tin tưởng vào sự vận động ; cuối bài hát, ông đưa vào ánh sáng một điều hiển nhiên, tạo một sự chuyển động mới cho đất nước :

Người đi tìm ánh sáng mặt trời …
Người đi tìm ánh sáng trời lên …

Nhận định kép : sự tìm kiếm ánh sáng mặt trời là sự tìm kiếm chân lý, và sự tìm kiếm ánh sáng trên trời cao phải là sự tìm kiếm sự tự do vô biên, vô cùng. Sự thiếu tự do theo Phạm Duy phải được bù đắp bằng âm nhạc, sáng tạo mách bảo với nhạc sĩ rằng ông phải thoát ra khỏ thiếu thốn tiên liệu đó. Khi sáng tác âm nhạc với niềm vui thú xóa bỏ sự thiếu thốn, ca từ mỗi khi hòa với âm nhạc sẽ vạch ra một hướng đi mới, nơi mà mỗi sự vận động mới tạo nên một nhãn quan mới, mặc dù thế, mỗi sự dịch chuyển đều nhắm đến một nơi nào đó. 

Trong những năm tháng chiến tranh liên miên, sự dịch chuyển mới của trí tưởng tượng mang lại cho nhạc sĩ quyền được đi lại từ đầu trong lịch sử dân tộc (một lịch sử lặng lẽ), trong quá khứ  của tuổi thơ (một quá khứ êm đềm), trong hoài niệm về những cuộc tình (những hoài niệm vững bền).Việc đặt sự tự do « trên hết tất thảy » cho phép nhạc sĩ tạo ra sứ mạnh hòa hợp giai đoạn khởi đầu này, giai đoạn xét về con người có thể sống được và có thể bảo vệ những ước mơ đời thường. Trong bài hát Kỷ niệm sáng tác năm 1966, đi lại từ đầu trở thành cho đi lại từ đầu như hành động đảm nhiệm việc gì đó với những người thân khác, vì người ta không thể sống một mình :

… Cho đi lại từ đầu, chưa đi vội về sau,
Xin đi từ thơ ấu đi, vui và bên nhau…

Niềm khát khao tự do như vậy nằm ở trong sức mạnh sáng tạo và tái sáng tạo, và tác phẩm của Phạm Duy nói lên rằng niềm khát khao tự do không phải là gì khác mà là sức mạnh tồn tại trong sức sống, sức mạnh này biết cách đi xa trong hoài niệm. Vì vậy không được quy giảm khát khao này thành sự thiếu thốn, như vậy là lấy hậu quả làm nguyên nhân, hạ nguồn thành thượng nguồn, bởi vì khát khao tự do phải là sức mạnh đầu tiên của tình yêu, mà tình yêu là thứ đưa đường chỉ lối cho nhạc sĩ và không để cho anh ta làm đảo lộn logic sự kiện của lịch sử. Sự thiếu thốn không giải thích hoàn toàn bản chất của khát khao như là điều kiện tiên quyết của tự do, nhưng đúng hơn, phải nhìn trong sự hòa hợp giữa sáng tạo và tự do : một  sức mạnh kích thích khát khao bằng cách đào sâu vào ngọn nguồn của lời nói, để tạo nên sự rõ ràng của tự do. 

Trong loạt bài Bé ca, nhạc sĩ tự cho mình quyền tự do (tái sáng tạo), vừa nở rộ vừa trang trọng, tái nhập những giai điệu truyền thống và dân gian bằng cách minh họa thứ âm nhạc dành cho trẻ thơ. Thế nên, trong những năm 1970, sự rõ ràng trong âm nhạc Việt Nam xuất hiện trong sức sống trầm lặng trước những loại âm nhạc nhập khẩu từ phương Tây tràn ngập âm nhạc Việt Nam đương đại. Trong bài hát Ông trăng xuống chơi, Phạm Duy tổ tái tạo di sản dân ca trong vẻ đẹp của những hình ảnh tạo nên mối liên hệ giữa các yếu tố thiên nhiên nơi mà trẻ thơ đang sống hạnh phúc, và mối liên hệ này sẽ tạo nên sự đón tiếp nồng hậu nhất trên vầng trăng. 

Trong các bài hát khác, nhạc sĩ nhấn mạnh sự cần thiết phải tẩy chay sự mặc cả, thậm chí sự thương lượng trong việc giáo dục trẻ em bằng cách tăng cường tình bằng hữu và sự tương  thân tương ái trong một thời đại mà đạo đức xuống cấp. Đó là chưa kể việc định danh âm nhạc dựa vào tiếng cười hạnh phúc của trẻ thơ, với biểu tượng những con chim sẻ an bình trên cành yêu thương. Đó là kết luận mà nhạc sĩ đưa ra cho bài hát cuối cùng trong loạt bài đó :

 Một con chim nhỏ trên cành yêu thương

Nhưng năm 1975 đang đến, thời khắc thay đổi chế độ với phần thắng thuộc về cộng sản và phần thua thuộc về miền Nam theo chủ nghĩa quốc gia, đó cũng là sự thay đổi trong cuộc đời nhạc sĩ, khiến nhạc sĩ phải lưu vong tại Mỹ. Sự lưu vong của ông là một hành động cụ thể, đó là tìm kiếm tự do, nhưng với cái giá nào phải trả 



Nhạc sĩ nhận ra rằng cái giá phải trả là rất đắt, từ một nhạc sĩ dân tộc ông trở thành một người nhập cư bình thường. Trong Tị nạn ca, ông kể lại cú sốc và sự kiệt quệ của sự lưu vong, ông đào sâu suy nghĩ về logic của sự mất mát : Khi mất nước, người ta mất dân tộc ; khi mất người hâm mộ, người ta có nguy cơ đánh mất âm nhạc của mình. 

Cái giá cho sự tự do lưu đày, ông bắt đầu phải trả trong trại tị nạn Eglin tại Florida nơi ông trả lời trong một bài tiếng phỏng vấn bằng tiếng Anh : « Tôi luôn hát về đất nước, nhưng bây giờ đất nước tôi ở đâu ? ». Mất nước trở thành một sự lang thang gần như trong cơn hấp hối, trong bài hát Nguyên vẹn hình hài, ông đã nói về cái chết của chính mình : 

Nơi tha ma mở nắp mồ lên
Sẽ thấy một người nằm thanh thản
Trông như chân dung của Việt Nam.
 
Trong cùng bài hát đó, có mt thông đip l :

(…Cho tôi khôn trưc ngày đu thai…)

Khát khao t do và s lang thang tiếp ni đt con ngưi cá nhân trong mt s căng thng mà ông gi là s thư giãn trong sáng to. Trong suy nghĩ ca nhc sĩ, s căng thng có th là mt sc mnh sau khi nhn thc hết s mt mát. Thế nên, Phm Duy xem s căng thng này như ngn ngun tái sinh ch không phi là sc chế, ông xem s lưu vong như mt kinh nghim sáng tác mi. Và nếu sc mnh sáng to đến hn, s tn vong s chân tri, rõ ràng, có thc. đây và bây gi mt mát, ngày mai, quá trình đu thai s vun đy nhng cái nhìn khác v thế gii bên ngoài đ nhìn nhn đt nưc mt cách khác, đ nhìn nghip ca chính mình mt cách khác. Nhưng có th thng mt ngày mai đen ti và xa quê hương ? Có ! Nh khát khao t do, mt nim khát khao biết cách sáng tác âm nhc. 

Cui cùng, ngay sau đó, nhc sĩ sáng tác tiếp bài Hát trên đưng vưt biên năm 1978 trưc s lưu vongt ca các thuyn nhân Vit Nam. Đng bào ông, t lâu, sng ven bin mà không thy bin và không h có kinh nghim đi bin, h b chết đui ngoài khơi, biến Thái Bình Dương thành nghĩa trang khng l dành cho nhng k chy trn. Mc du vy, thông đip ca Phm Duy đi theo hưng mt con đưng m ra s sng, đây, t do là nim vui :

…Đi tìm l sng trong tri đt…
Mt đoàn ngưi đi tìm t do…
Đến chia vui vi ngưi
 
Trong sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy, khái niệm niềm vui của con người vẫn luôn « thú vị » hơn bởi nó tác động mạnh mẽ hơn niềm vui có quyền con người. Trong niềm vui, người ta thấy tình yêu sắp đến, trong quyền, nếu yếu, người ta sẽ mất hút trong chứng cứ pháp lý và sự thương hại mà không làm chủ được sự lưu vong của chính mình. Suốt đời, Phạm Duy không ngần ngại phổ nhạc tình là niềm vui, luôn luôn rạng ngời, nghênh đón, mời gọi tự do. Ánh sáng này phải được công nhận như là chân lý, chân lý đầu tiên và dễ nắm bắt. 

Trong loạt bài Tị nạn ca, bài hát Hát trên đường tạm dung,  trong tuyệt vọng, ông tìm cách tạo ra cuộc đối thoại với tượng tự do mà không thành, mặc dù thế, ông vẫn luôn giữ nguyên vẹn tình yêu trong độc thoại :

…Nàng lên tiếng nói : tự do bác ái ! Cho đẹp lòng tôi, thế giới cũng vui …

Phạm Duy biết bây giờ ông là kẻ cô đơn, ông không chia sẻ sự tự do của mình với ai và sáng tác của ông đi vào độc thoại, thường chỉ có mất, người Việt Nam gọi đó là mất trắng ; trong lòng ông, ông thấy rõ những kẻ tị nạn bị mất mạng trên biển khơi sau 1975. Ông biết cái giá của tự do nhưng ông cũng biết rằng không có tự do, cuộc đời sẽ chỉ là lầm lạc. Khái niệm lầm lạc có tác động cực mạnh đối với thế hệ hai lần lưu vong, vào năm 1954 với sự di dân từ Bắc vào Nam sau khi, chế độ Cộng sản được thiết lập, rồi vào năm 1975 với việc người dân sang sống lưu vong ở các nước phương Tây.

Với thân phận lưu vong, ông thỏa sức suy tư về tiên đoán của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, bạn của ông :

Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh…

Và mất mát lẫn với hư vô :

…Chúng ta mất hết chỉ còn nhau

Nhìn chung, thế hệ này không gào lên như Gide : « Gia đình, ta thù ghét gia đình !Những tổ ấm khép kín ; nơi chế ngự hạnh phúc một cách đố kỵ »[5], bởi vấn đề của ông có vẻ nghiêm trọng hơn trong  bối cảnh chiến tranh tiếp nối chiến tranh do chịu ảnh hưởng của các ý thức hệ nước ngoài. 

Phạm Duy và bạn bè của ông thực sự sống trong khiếm khuyết hóa kiếp, chủ đề quan trọng của Phật giáo và đã ăn sâu trong tín ngưỡng của người Việt Nam, người dân đất nước này thường tự diễn giải nỗi đau khổ của chính mình. Khước từ gia đình cũng vô ích, bị đuổi khỏi đất nước là một điều không may mắn cho sự hồi sinh. Khi phổ nhạc bài thơ này của Vũ Hoàng Chương, ông cho người nghe thấy sự bế tắc của mình, sự phù du của cuộc đời mình :

Tôi xa quê hương như con sâu kẹt lối,
 Non nước tuyệt vời đã đổi màu da …

Preud cho rng tình yêu ch là tình  yêu chuyn ti, đưc nhn trưc khi đưc cho, hnh phúc đưc yêu có trưc hnh phúc yêu và chun b cho hnh phúc yêu, và kết qu ca quá trình chun b này là gia đình. Ngưi Vit Nam vn thm nhun văn hóa nho giáo tin rng dân tc là mt đi gia đình và đt nưc là mt ngôi nhà ln. Đúng thế, t chn lưu vong, Phm Duy mun t b cái nhìn này v gia đình đ đào sâu hơn như ông nói Nhng nét bun ca trùng dương, ca vũ tr ,[6] làm toát lên mt đnh nghĩa khác v s t do nhìn t chn lưu vong, và khi đu t bi kch ca các đng bào t nn trong cnh lp b vá tri :

…Bng nim tin lp bin su thương…
Sng đưc trong đi,
Hy vng còn nuôi, nuôi mãi tin yêu…

Trong tình yêu có tất cả những gì ông khao khát bởi ông chỉ muốn những gì có thật, những gì ông có thể hưởng thụ hoặc mang lại cho ông vui sướng. Hưởng thụ cuộc đời, hưởng thụ sự hiện diện. Hạnh phúc, theo Platon, đó chẳng qua là có những gì mình muốn.[7]. Vậy nhưng Phạm Duy không chỉ hy vọng những gì ông không có : niềm hy vọng được thú nhận, giữa thiếu thốn và phi thực. Việc lưu vong trở nên ngột ngạt hơn vì nó đi  ngược lại hy vọng : đó là ác mộng của những đêm quy giảm cuộc đời lang thang thành hư vô. Trong bài hát Giấc mơ khủng khiếp, từ nước Mỹ, ông thấy sự biến đổi ác mộng của dân tộc nô lệ trong một đất nước trống rỗng, không sự sống, và trong nhạc của ông có sự kinh hoàng :

…Xin cho tôi đừng ngủ nữa,
Xin thôi không nằm mộng du…

Tình yêu là khát khao, khát khao là bản chất của người đàn ông tự do ; vậy nhưng tự do thường được xác định bởi sự thiếu tự do và mối liên hệ giữa chúng được thiết lập từ những thử thách trong cuộc sống trong sự đối sánh. Giai đoạn lưu vọng giúp Phạm Duy xem xét kỹ hơn vòng luẩn quẩn bi kịch của đồng bào đang ở lại đất nước, đang sống trong cảnh hòa bình khó có thể chấp nhận, trong một chế độ độc tài, các trại tập trung được nhân rộng, những người phụ nữ sống trong cảnh không chồng rất nhiều. Trong bài hát Trả lại chồng tôi, năm 1983, Phạm Duy gợi lại vấn đề xung khắc giữa đồng bào với nhau. Lần này, nhìn từ chốn lưu vong, đó là sự không hiểu nhau vĩnh viễn :

…Cùng là anh em, hai miền ruột thịt,
Sao n bt đem đi đày xa?

Quan h rut-tht vn là nn tng cơ bn ca các mi quan h gia đình đi vi ngưi dân Vit Nam bi vì đó là nn tng ca nim tin ca con ngưi có cùng t cht sinh hc và có cùng quan h huyết thng, t  tc th cúng t tiên đến nhau thai t mt ngưi m. Tm quan trng nhân hc ca hìnhnh này mang tính kép : Đng bào Vit Nam xut thân t mt gia tc trong đó đoàn kết to nên phn x, tương thân tương ái rèn rũa s t đn ; s hn thù tr nên khó hiu và s giết chóc là không th th tha. 

Nhng bài hát tiếp theo trong giai đon ngưi dân Vit di cư hàng lot sang phương Tây, Phm Duy tiếp tc tôn vinh hìnhnh ca nhng ngưi ph n Vit Nam, h phi chu cnh mt mát đau thương trong mt đt nưc hòa bình, trong khi thc tế có nhng ngưi v mt chng trong các tri tp trung hay xa khơi, bin hung d vi nhng tên cưp tn công nhng k chy trn và hãm hiếp ph n

Đưc t do M, Phm Duy tiếp tc suy tư v s thiếu thn t do trong đt nưc ; ông ph nhc các bái hát ca Nguyn Chí Thin trong lot bài Ngc ca, ca Hoàng Cm trong Hòang Cm ca. Vì vy, ông tr thành ngưi làm trung gian gia hai nhà thơ ly khai b chế đô trong nưc trn áp mnh tay này và đng bào ôngc ngoài b mt thông tin hoàn toàn v bn cht ca chế đ. Là ngưi biết đy đ thông tin v đt nưc và nht là con chim đu đàn ca nn âm nhc dân tc b lưu vong và thoát khi mi ý thc h, Phm Duy đm nhim v thế đó, bt chp hay d

Bên cnh nhng bài hát phn ánh tâm hn ca ngưi Vit lưu vong, đng bào ông đôi khi ngc nhiên v quan đim chng cng ca ông, kèm theo đó là hot đng thương mi trong vic ph biến âm nhc ca mình gia châu M và Châu Âu. S tn vong gia chiến tranh và t nn dy cho ông cách làm ch âm nhc, t khâu sáng tác đến khâu ph biến. Ông có th b xem là có li hay th phm trong bi cnh b cô lp, lưu vong nơi mà truyn thông phương Tây không dành ch nào cho âm nhc Vit Nam ? 

C cho là như vy. Nhưng tình yêu ông là s t b. Ngưi ta yếu vì chưng ngưi ta mnh. Ngưi ta nh bé vì chưng ngưi ta biết mình có th bay cao, bay xa. Lưu vongc ngoài, ông chng kiến s sp đ ca bc tưng Berlin và s sp đ này kéo theo s biến mt t t ca phe cng sn Đông Âu. 

Ông tái khng đnh đnh nghĩa v s t do ca mình bng cách gi lên s ct cánh nh nhàng ca ngưi Vit lưu vong phương Tây trong lot bài By chim b x, nhng con chim mơ đưc tr v quê hương. Đưc sáng tác t năm 1975 đến năm 1985, lot bài này cho thy nhng hìnhnh ca nhng con chim bay xa đ k rõ hơn v lch s, văn hóa và bi kch lưu vong ca đng bào. Giai điu dân ca kết hp nhun nhuyn vi các nhc c hin đi, to nên s quyn ln trong cách k chuyn, cho phép nhc sĩ viết (li) lch s đt nưc t nim khát khao t do, hoàn toàn t do và nh bng như nhng con chim ct cánh bay, tt c vì nim tin :

T do là tiếng loài chim.

Sự tự do nhỏ nhoi, là biết mình biết bay, vượt qua mọi trở ngại bởi chân lý của chế độ chính trị chỉ có một vị trí khiêm tốn trong chuyến bay của tất cả mọi con người trên toàn thế giới. Tình yêu tự do mang tính tự phát nhưng nó in đậm trong một ý tưởng nảo đó về nhân loại, trong đó con người bị ràng buộc vào mối tình đồng loại theo thiên hướng tự nhiên của min hf. Đó là một định nghĩa khác về tình yêu bao dung. Ở đây, lợi ích nhân học được tìm thấy trong loạt bài gồm 16 chương đưa ra những lý giải rõ ràng. Thế nên, nhà nhân học có thể quan sát, nghe thấy cội nguồn văn hóa của Phạm Duy, nhất là hiểu biết của ông về văn hóa dân gian. Chương thứ nhất có tên Bầy chim buồn bã (La troupe d’oiseaux tristes) có những câu:

Bầy chim buồn bã,
Rủ nhau trốn quê hương …
Để lê kiếp tha phương …

Chương thứ hai Chim Quyên từ độ bỏ thôn đoài miêu tả tượng trưng các hệ tư tưởng nước ngoài tạo nên những chế độ độc tài theo kiểu những kẻ tham lam theo chủ nghĩa cơ hội, lý do lưu vong của đồng bào ông. Lạ tính đi đôi với sự ngạc nhiên, sự bất chợt đi đôi với sự kinh hoàng của người dân trên đường chạy trốn :

…Thì bỗng đâu có loài ác điểu
Thừa cơ làm chủ lũ chim yêu…

Chương ba có tên Bầy chim bé nhỏ phác thảo một thế giới trong đó những kẻ thống trị đè bẹp một cách tàn bạo những kẻ bị trị :

Loài ưng loài ó, nào dung lũ chim non …

Những kẻ bị trị yếu được coi là nhỏ nhoi trong văn hóa Việt : ít hơi, ngắn tiếng. Đó là số phận bi thương của người dân tị nạn. Thêm lần nữa, nhạc sĩ đứng về phe nước mắt và máu của nạn nhân, ông chia sẻ số phận hẩm hiu của con chim chào mào : 

…Con chim chào mào líu lưỡi ngọng câm…

Trong chương 5 có tên Chim bay t đng lúa phương Nam, Phm Duy thy rõ hơn cai nghip gia con ngưi và loài chim :

…Chim bay xa thương cây nh ci, ngưi xa ngưi ti lm ai ơi…

Ca t này đưc rút ra t mt bài dân ca, mt ln na đưc Phm Duy hà thêm sc mnh nh âm nhc thêm vào ch ti nhng hàm nghĩa khác va nng n va đa dng. Vì ti va ch cách mà mt bi kch thong qua đnh hình dn dn thành mt ni đau muôn tha, cách mà ti li trong khonh khc làm ny sinh ti li lâu dài. Đâu đó có mt liên h cht ch gia t do t nn và ti li đng ngoài bi kch ca đt nưc trong tâm tư ngưi Vit. Trong chương 6, Mt đôi phưng quý, ông thy v đp v màu sc và hình hài đang chết dn trong cnh xa đt nưc :

… Mt đôi phưng quý,
Than ôi ! Xù lông dưi mưa đông,
 Nhìn công thèm múa,
 Ri chim chết bên sông…
 
 Trong chương 7, Trên cành vàng con hoàng quyên , đó là th thách ca tiếng hát t do trưc s lnh lo lưu vong : 

…Con vành khuyên không ngng hát chiêm bao…

Nhưng chương 8, Bầy chim biệt xứ, rúng chuông đánh thức loài chim đang ngủ quên ở nơi xa xứ nhờ vào những con én bay báo hiệu xuân về :

Còn u uất trong hang.
Thì nghe bầy én Nhạn xanh tới hân hoan …

Trong việc xác định mùa xuân trở lại như  là sự hồi hương với sức sống mãnh liệt của những con chim én đập cánh, Phạm Duy tìm cách thể hiện một tình cảm mới của đồng bào ông: những kẻ lưu vong đã hết sợ hãi. Chương 9 Én bay thấp, én bay cao cho thấy đã hết áp bức :

… Én bay thấp nên không sợ diều hâu,
Én bay cao nên không khi nào gặp nạn…

Tiếng Vit thưng liên kết s c vi bi kch, và hết bi kch cho thy s đoàn t gia đình nơi mà chim chóc s chung sng vì chúng cùng huyết thng. Trong chương 10, By chim mt nhà, vic không còn s hãi s to nên vn hiu biết đ t v :

 …Chim tự thuở nào chim đã hót, tiếng chim vượt thời gian…

Trong chương 12, Bầy chim một tổ, Phạm Duy kết hợp giấc mơ tự do và giấc mơ ngày trở về, cuộc sống bầy đàn phải là sự sẻ chia những gian nan thử thách trên con đường tìm kiếm tự do :

…Còn nuôi giấc mơ là chim gõ mõ,
Còn nuôi sóng gió là bầy hải âu…

Sự tỉnh mộng phải là hệ quả logic của tiếng hát của chim muông, thế nên trong chương 13, Bầy chim tỉnh giấc, tiếng chim thiêng cất lên đánh thức lịch sử lâu đời của nước Việt Nam đang ngủ mê, thế mà sự thiêng liêng kết hợp với sự bí ẩn tạo nên một thông điệp quý báu : dòng đời đã đến lúc đổi thay, gương  mặt mới đang ở phía trước, và một số phận mới cho tất cả mọi người :

… Từ nơi huyền bí, nổi lên tiếng chim thiêng …

Chương 14 Bầy Chim Huyền Sử, gợi nên sự trở về như trong mơ của con cháu người Việt, theo huyền thoại, trên trống đồng Đông Sơn có khắc sự khởi thuỷ của văn minh Việt với những con rồng, những thiên thần và loài chim :

… Hỡi những cánh chim của tiên với rồng…

Thông điệp này hòa hợp với chương 15, Bầy chim hồi xứ, với niềm hân hoan khiến cho chim dữ phải bay đi :

Bầy chim hồi xứ, trời mây đón đưa chim,
Diều, kên, quạ, cú đuổi lui sống trong đêm…

Phần cuối là chương thứ 16 thể hiện niềm vui lớn lao là được trở về (Chim quyên về đậu ở thôn đoài), chương này cho thấy sự định danh mới của Phạm Duy. Ông nhìn nhận lại cái nghiệp nhạc sĩ của mình giữa lời ca và tị nạn trong sự cất cánh bay đi của chim muông :

..Ta và chim khâu vá đời sau…
Ta còn nhiều phen hát tình yêu.

Spinoza biết rõ cái khóa gắn tình yêu với tự do : « Tình yêu là một niềm vui kèm theo đó là ý nghĩ về một sự nghiệp bên ngoài » ( l’amour est une joie qu’accompagne l’idée d’une cause extérieure) »[8]. Phạm Duy đã sẵn sàng hòa nhập vào định nghĩa này về tình yêu với niềm tin hân hoan rằng tình yêu sẽ tạo nên sự tồn tại của tình yêu, ngọn nguồn của sự thăng hoa, của sự may mắn được sống tự do.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Girls Generation - Korean