Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

Just The Way You Are - Teenage Dream - Marry Me

Bạn,

Nghe trên radio 3 bài nhạc mới sau đây 103.5 KOST rất thường xuyên, tôi đăng lên đây mời bạn cùng thưởng thức. Cũng đăng thêm bài "Just The Way You Are" của Billy Joel sáng tác và trình diễn, rất nổi tiếng trong thập niên 80.

 Trong hai bài đầu và cuối, các cái "hooks" về nghệ thuật đặt lời đều thấy rõ. Trong bài Just The Way You Are, theo tôi một trong các câu đó là câu "Khi em cười, cả thế giới ngừng việc họ đang làm để chiêm ngưỡng một chặp". Trong Marry Me, thì đó là câu: "Nếu anh có đủ can đảm để nói "Hello" tới em, thì hãy nói lời chấp thuận cầu hôn của anh." Còn bài Teenage Deam thì lời cũng bình thường, tôi chỉ thích các cách cà bài "dằn" các câu ngắn, thì có đoạn nhạc như hình trôn ốc:


"I might get your heart racing/ In my skin-tight jeans /Be your teenage dream tonight // Let you put your hands on me/ In my skin-tight jeans /Be your teenage dream tonight"

cuốn liền nhau từ nốt cao rồi quay từ từ xuống thấp để cân bằng bài nhạc.

Nào mời bạn cùng xem:


***



Just The Way You Are

Performed by Bruno Mars

Oh her eyes, her eyes
Make the stars look like they're not shining
Her hair, her hair
Falls perfectly without her trying

She's so beautiful

And I tell her every day

Yeah I know, I know

When I compliment her
She wont believe me
And it's so, it's so
Sad to think she don't see what I see

But every time she asks me do I look okay

I say

When I see your face

There's not a thing that I would change
Cause you're amazing
Just the way you are


And when you smile,
The whole world stops and stares for awhile
Cause girl you're amazing
Just the way you are

Her lips, her lips

I could kiss them all day if she'd let me
Her laugh, her laugh
She hates but I think its so sexy

She's so beautiful

And I tell her every day

Oh you know, you know, you know

Id never ask you to change
If perfect is what you're searching for
Then just stay the same

So don't even bother asking

If you look okay
You know I say

When I see your face

There's not a thing that I would change
Cause you're amazing
Just the way you are
And when you smile,
The whole world stops and stares for awhile
Cause girl you're amazing
Just the way you are

The way you are

The way you are
Girl you're amazing
Just the way you are

When I see your face

There's not a thing that I would change
Cause you're amazing
Just the way you are
And when you smile,
The whole world stops and stares for awhile
Cause girl you're amazing
Just the way you are


***


 

Just The Way You Are

Performed by Billy Joel
 
Don't go changing, to try and please me
You never let me down before
Don't imagine you're too familiar
And I don't see you anymore
I wouldn't leave you in times of trouble
We never could have come this far
I took the good times, I'll take the bad times
I'll take you just the way you are

Don't go trying some new fashion

Don't change the color of your hair
You always have my unspoken passion
Although I might not seem to care

I don't want clever conversation

I never want to work that hard
I just want someone that I can talk to
I want you just the way you are.

I need to know that you will always be

The same old someone that I knew
What will it take till you believe in me
The way that I believe in you.

I said I love you and that's forever

And this I promise from the heart
I could not love you any better
I love you just the way you are. 



***


 

Teenage Dream


Performed by Katy Perry


You think I'm pretty
Without any make-up on
You think I'm funny
When I tell the puch line wrong
I know you get me
So I'll let my walls come down, down

Before you met me

I was a wreck
But things were kinda heavy
You brought me to life
Now every February
You'll be my valentine, valentine

Let's go all the way tonight

No regrets, just love
We can dance until we die
You and I
We'll be young forever

You make me

Feel like
I'm living a Teenage Dream
The way you turn me on
I can't sleep
Let's runaway
And don't ever look back
Don't ever look back

My heart stops

When you look at me
Just one touch
Now baby I believe
This is real
So take a chance
And don't ever look back
Don't ever look back

We drove to Cali

And got drunk on the beach
Got a motel and
Built a fort out of sheets
I finally found you
My missing puzzle piece
I'm complete

Let's go all the way tonight
 
No regrets, just love
We can dance until we die
You and I
We'll be young forever

You make me

Feel like
I'm living a Teenage Dream
The way you turn me on
I can't sleep
Let's runaway
And don't ever look back
Don't ever look back

My heart stops

When you look at me
Just one touch
Now baby I believe
This is real
So take a chance
And don't ever look back
Don't ever look back

I might get your heart racing

In my skin-tight jeans
Be your teenage dream tonight

Let you put your hands on me

In my skin-tight jeans
Be your teenage dream tonight

You make me

Feel like
I'm living a Teenage Dream
The way you turn me on
I can't sleep
Let's runaway
And don't ever look back
Don't ever look back

My heart stops

When you look at me
Just one touch
Now baby I believe
This is real
So take a chance
And don't ever look back
Don't ever look back



****




Marry Me

Performed by Train

Forever can never be long enough for me
To feel like I've had long enough with you
Forget the world now we won't let them see
But there's one thing left to do

Now that the weight has lifted

Love has surely shifted my way
Marry Me
Today and every day
Marry Me
If I ever get the nerve to say "Hello" in this cafe
Say you will
Mm-hmm
Say you will
Mm-hmm

Together can never be close enough for me

Feel like I am close enough to you
You wear white and I'll wear out the words I love you
And you're beautiful
Now that the wait is over
And love and has finally shown her my way
Marry me
Today and every day
Marry me
If I ever get the nerve to say "Hello" in this cafe
Say you will
Mm-hmm
Say you will
Mm-hmm

Promise me

You'll always be
Happy by my side
I promise to
Sing to you
When all the music dies

And marry me

Today and everyday
Marry me
If I ever get the nerve to say "Hello" in this cafe
Say you will
Mm-hmm
Say you will
Marry me
Mm-hmm


Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2011

Ông Lê Nin ở Nước Nga ...

Bạn,

Xem hình biểu tình (19/6/2011) chợt nhớ đến một câu thơ sáu tám vui vui (hình như là thơ Bút Tre?) đã nghe trước đây:

Ông Lê Nin ở Nước Nga ...
Tại sao lại đứng vườn hoa nước mình?



Cùng lúc, ở Saigon có tượng Đức Thánh Trần thật uy nghi, đáng lẽ ông phải ở chỗ ông Lê Nin mới đúng, thay vì lọt thỏm ở những building xung quanh.


Trộm nghĩ, nếu hông phải là bác Lê Nin mà là Mao Chủ Tịt thì các bác lãnh đạo ở Hanoi nhà mình phen này cũng khó ở, nhỉ?

hoctro ...

Thứ Ba, 14 tháng 6, 2011

Thiền - Não Bộ - "Ta đã an tâm cho con"

Bạn,

Hôm qua có nhiều duyên may trong sự việc tĩnh tâm của tôi quá, nên tôi muốn dành riêng bài viết ngắn này để viết vài dòng. 


Trước tiên, tôi xin trích vài dòng giới thiệu về một vị tổ Thiền, và những câu đối đáp mà tôi lờ mờ không hiểu, thì nay đã "tạm hiểu" thêm một tí.

Huệ Khả , 487-593, là Thiền sư Trung Quốc, vị Tổ thứ hai của Thiền tông, được Bồ-đề-đạt-ma ấn khả. Kế thừa Sư là Tam tổ Tăng Xán.

Theo truyền thuyết thì Sư đến Thiếu Lâm tự năm 40 tuổi tham vấn Bồ-đề-đạt-ma. Ban đầu Bồ-đề-đạt-ma chẳng để ý đến sự hiện diện của Sư, để Sư đứng trong tuyết băng nhiều ngày. Để chứng minh Bồ-đề tâm của mình, Sư tự chặt cánh tay trái dâng Bồ-đề-đạt-ma và sau đó được nhận là môn đệ. Tắc thứ 41 trong Vô môn quan có ghi lại cuộc đàm thoại đầu tiên giữa Bồ-đề-đạt-ma và Huệ Khả.
Bồ-đề-đạt-ma ngồi nhìn vách tường. Sư dầm tuyết, rút dao tự chặt cánh tay, nói: "Con không an được tâm, xin thầy an tâm cho con."
Đạt-ma bảo: "Đưa tâm cho ta, ta sẽ an cho."
Sư đáp: "Con không thấy tâm đâu cả."
Đạt-ma đáp: "Ta đã an tâm cho con."


Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BB%87_Kh%E1%BA%A3

 Ba tôi là người nhắc lại điển tích này trong một cuộc nói chuyện ngắn ngày hôm qua. Tôi khoe với ông tôi mới mua được một quyển sách rất hay do một tiến sĩ y khoa đạt giải Nobel năm 1972 là ông Gerard Edelman http://en.wikipedia.org/wiki/Gerald_Edelman . Quyển sách đó tên là "Wider than the sky", http://books.google.com/books?id=-juZFfTpY5gC&dq=Wider+than+the+Sky&ie=ISO-8859-1&source=gbs_gdata , tôi vừa đọc được vài trang, và hiện đang cho ba tôi mượn để ông xem trước.



Trong chương 2, ông Edelman có khẳng định một câu thật tuyệt vời là "consciousness is a process, not a thing", tạm dịch là : ý thức là một quá trình, không phải là một vật (cụ thể mà ta thấy được.) Thật vậy, khi ta ngủ thì ta đâu có ý thức, chỉ khi nào ta dậy, cũng giống như bật computer lên, thì khi đó ý thức mới nảy sinh - những luồng điện nhỏ chạy lăng xăng trong não. Tắt computer - tức là khi đi ngủ - thì ý thức cũng không còn. Do chỉ là những luồng điện chạy đi lại, trong các dòng "bus" nếu ta tiếp tục dùng các khái niệm trong computer, nên chúng không có chỗ thường trú, không thể nói chúng (ý thức) ở tại khu này hay khu kia trong não, giống như processing chip, memory, hay hard drive (bên computer) được. [Xin nói thêm: khi ngủ thì cũng có điện chạy lăng xăng, nhưng chúng làm ra những giấc mơ, và quá trình (process) này không có ý thức - unconsciousness.]

Trở lại các câu hỏi và đáp giữa hai vị Tổ, tôi đột nhiên "ngộ" là Tổ Đạt Ma đang tìm cách giải nghĩa cho Tổ Huệ Khả điều trên, tức ông muốn nói là cái "tâm" không thể nào tìm thấy được, vì nó chỉ là những dòng điện thôi. Tổ Đạt Ma đã "an" được cái "tâm" của Tổ Huệ Khả vì chứng minh rằng ông đi tìm cái "tâm" là vô ích, vì nó không có thật, không sờ mó được. Trước kia thì tôi hiểu điển tích này theo nghĩa khác, là khi ông này hỏi thì đã thể hiện cái tâm "lành" rồi đó, chứ còn cái "tâm" nào khác đâu mà tìm? Chứ người thường thì đâu có ở không đâu mà phải bận tâm đi tìm cái tâm? Hiểu theo cách này thì thật là nông cạn.

Nhưng thật ra cái tâm - ý thức - không có, mà cũng có, là vì chúng ta phải suy nghĩ hằng ngày, thức dậy là máy đã bật lên rồi. Thành ra suốt ngày lăng xăng vì những ý tưởng, những hành động. Vấn đề là phải "an" cái tâm đó. Bài phỏng vấn dưới đây của đài RFI với Thiền Sư Thích Thông Triệt mà tôi tình cờ đọc được ngày hôm qua thật xúc động vì bài ấy đã liên kết thật khoa học hai niềm đam mê tìm hiểu của tôi - hiểu biết khoa học về não bộ, và tìm hiểu Thiền để tập "an" cái tâm lăng xăng - thành một chủ đề.

Mời bạn cùng xem bài phỏng vấn. Hy vọng sau khi đọc xong bạn sẽ "nói thầm" với bạn những điều dễ dễ thôi, bớt đi những "nói thầm" lăng xăng quá như: phải mua cái nhà cho bự hơn nhà "con kia", mua xe "xịn" hơn thằng cùng sở kia, phải chơi cái smart phone 4G kia để xem web lẹ hơn, để còn tìm ra các thứ hay ho khác để rồi ... lăng xăng tiếp trong một vòng luân hồi khác :-)

 ****

Những lợi ích của tập thiền dưới ánh sáng của khoa học về bộ não 

http://www.viet.rfi.fr/cong-dong/20110608-nhung-loi-ich-cua-tap-thien-duoi-anh-sang-cua-khoa-hoc-ve-bo-nao

Trọng Thành (FRI)
 
Từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây, có nhiều người trong giới tu hành Phật giáo hướng đến các khoa học về con người, đặc biệt là khoa học về thần kinh não bộ để tìm trong đó những cơ sở thực chứng khách quan của con đường rèn luyện nội tâm. Những phát triển mới trong nghiên cứu khoa học về bộ não và nhất là các kỹ thuật đo lường và chụp ảnh những hoạt động của não cho phép một số nhà tu hành đặt mình vào vị trí đối tượng nghiên cứu của khoa học thần kinh.

Chúng tôi có duyên được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt, thiền chủ Thiền viện Tánh không (Hoa Kỳ) nhân dịp ông qua Pháp giảng dậy. Thiền sư Thích Thông Triệt là người đã rất nhiều năm đeo đuổi ước vọng dùng các hiểu biết khoa học để soi sáng quá trình tu tập. Thiền sư là soạn giả cuốn sách « Thiền dưới ánh sáng khoa học », ấn hành năm 2010 (sách được dịch qua Pháp ngữ với tựa đề "Zen sous l'éclairage de la science" và Anh ngữ  "Zen in the light of science”).

Cuốn sách này mô tả lại các thực nghiệm với các máy đo điện não đồ và cộng hưởng từ, mà các nhà não học thuộc trường đại học Tubingen (Đức) tiến hành trong vòng 5 năm (2006-2010) trên đối tượng là bản thân Thiền sư và các Thiền sinh theo học kỹ thuật Thiền Tánh Không.







Trước khi ông lên máy bay trở về Hoa Kỳ, chúng tôi có dịp được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt tại thiền đường Hội thiền Tánh không Paris (Association Méditation Sùnyatà). Sau đây là những lời giải thích mà Thiền sư đã dành cho chúng tôi về chủ đề này.

 RFI : Xin kính chào Thiền sư. Hôm nay có dịp được Thiền sư cho phép gặp mặt và nhận lời nói chuyện với Đài, và qua Đài chuyển tiếng nói đến những thính giả, những người Việt Nam, hoặc những người nghe và hiểu tiếng Việt, để biết được con đường tu hành của đạo Phật dưới sự soi sáng của khoa học thần kinh hiện đại. Cụ thể là tu tập theo pháp môn « Thiền » và những tác động của nó đến đời sống hàng ngày của mình, và để nó giúp mình giải quyết các vấn đề khó khăn, mà nhiều người tự bản thân còn lúng túng chưa biết giải quyết ra sao trước những trở ngại tinh thần, tâm lý, sức khỏe bệnh tật. Theo Thiền sư, pháp môn Thiền có thể đem lại những gì cho những người bình thường bị rơi vào trạng thái như vậy ? 

Thiền sư Thích Thông Triệt : Trước hết, chúng tôi cám ơn anh Trọng Thành, đại diện cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp đặt câu hỏi. Chúng tôi xin trả lời rằng, Thiền là do Đức Phật Thích Ca, Ngài đã tự tu và tự mình kinh nghiệm được những gì mà Ngài đã khắc khoải trước đó. Sau đó, Ngài đã thành tựu. Ngài dạy lại, và pháp môn Ngài dạy lại đó thực sự là pháp môn tu Thiền. Mà Thiền của Đức Phật nhắm làm sao giúp con người điều chỉnh lại nhận thức của mình. Vì chính nhận thức đó đưa đến cho con người khổ não, trầm luân, hay là giải thoát.

Thành ra, khi hướng dẫn người thực hành Thiền, chúng tôi nhắm khai triển những phần nào mà làm cho con người được hài hòa thân tâm của mình, và phát huy được trí tuệ tâm linh của chính mình. Cho nên phần đó, chúng tôi thường dẫn chứng bằng « Pháp » mà Đức Phật đã thành tựu được. Đó là pháp thở. Từ nơi pháp thở đó, chúng ta có khả năng điều chỉnh lại được sự rối loạn bên trong não bộ của chúng ta. Phần đó sẽ được giải thích hơn, nếu mà người đọc có nhu cầu.

Tìm ra cơ chế để « vọng tưởng » không xuất hiện

RFI : Thưa Thiền sư, Thiền sư có thể giải thích vì sao Thiền sư đã đi tìm những cơ sở khoa học và đặc biệt là cơ sở về bộ não con người để mà phối hợp với các biện pháp trong đạo Phật, do Phật truyền lại ? Vì sao Thiền sư quyết định làm như vậy ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Điều này nói ra nó hơi dài. Nhưng nếu mà em muốn nghe, thì chúng tôi sẽ nói ra. Ngày nay, Thiền thật sự là một môn tu cũ rồi, nhưng mà nó lại trở nên mới. Lý do là, Thiền đã có trên thế gian này hơn 2.500 năm rồi. Tức là sau khi Đức Phật thành đạo, bằng Thiền. Ngài dạy lại các phương pháp của ngài cũng bằng Thiền.

Nhưng mà vì nó khó quá, nên người này chế ra phương pháp này, người kia chế ra phương pháp kia. Mục đích để làm cho tâm mình nó yên lặng thôi. Thành ra, những cái chế đó ấy, các sáng tạo, sáng chế đó làm cho Thiền càng thêm rối bời thêm ra. Mỗi người làm theo ý mình, rốt cuộc nó loạn ra. Có cả triệu (phương pháp), chứ không phải ngàn đâu. Trải qua 25 thế kỷ rồi, người thực hành Thiền rất khó khăn. Đứng trước rừng Thiền, một cánh rừng già dày đặc, muốn vô làm sao vô đây.

Chính bản thân tôi ngày xưa cũng vậy đấy. Chúng tôi đã thất bại khi áp dụng các phương pháp cũ. Đó là người ta giảng sao mình làm theo vậy. Nhưng rồi, có điều bật ra từ trong não chúng tôi, chúng tôi tự giải đáp trong não mình. Tức là đừng có « nói thầm » ! Nói thầm hoài thì « vọng tưởng » có hoài. Vì chủ trương của Thiền là dập tắt vọng tưởng, tức là những ý nghĩ miên man trong đầu khởi lên lên. Người này chế ra cách này, người kia chế ra cách kia để dập tắt vọng tưởng. Chúng tôi làm đủ hết mọi cách, nhưng không làm sao dừng được những sự « nói thầm » trong đầu của chúng tôi. Thực sự lúc đó, chúng tôi không biết đó là sự « nói thầm », chúng tôi cho rằng, đó là « vọng tưởng » thôi. Nhưng rút cục chúng tôi nhận ra rằng : A ! Cái gọi là « vọng tưởng » chính là sự « nói thầm » trong não mình đó. Bây giờ phải làm sao cho yên lặng cái đó đi thì mới được. Từ đó chúng tôi thực tập bằng cách không nói thầm.

RFI : Xin cắt ngang ở đây để Thiền sư giúp giải thích : « nói thầm » thì những biểu hiện ra sao, và tác hại của nó như thế nào ? 

Thiền sư Thích Thông Triệt : Khi nói thầm, đó là cơ chế của « tưởng ». Trong não bộ của mình, nó có một cơ chế … Nhưng hồi đó, chúng tôi không biết cơ chế não bộ. Từ trong đầu nó khởi lên cái « niệm ». Nói qua nói lại với nhau. Tức là mình nói qua nói lại với mình về một chuyện gì đó do những hình ảnh trong tâm mình khởi lên. Mình chạy theo hình ảnh đó để mình nói, nói rồi, tâm xúc cảm mình nó đi theo hình ảnh đó. Thành ra nội tâm không bao giờ yên lặng được.
RFI : Cái nói thầm như Thiền sư nói có thể chuyển sang diễn đạt khác là đối thoại bên trong có đúng không ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, từ chỗ nói thầm ban đầu, rồi đối thoại thầm lặng bên trong không bao giờ dứt. Thành ra, từ chuyện không có gì hết bắt đầu mình vẽ ra, mình sợ hãi, mình phiền muộn, mình giận tức luôn nữa. Nhiều khi « » xúi mình giết người ta đi, hay làm những chuyện tầm bậy, tầm bạ. Vì sự đối thoại thầm lặng đó đấy. Khi chúng tôi phát hiện lối đó, chúng tôi áp dụng cách không nói thầm

Kinh nghiệm tu tập trong trại cải tạo

RFI : Thiền sư phát hiện điều này vào thời điểm nào và có phải là trước khi Thiền sư bước vào nghiên cứu não đồ và các cấu trúc não liên quan đến quá trình Thiền ? 

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, lúc đó là vào năm 1982, khi tôi ở ngoài Bắc, tại trại Thanh Liệt. Chúng tôi phát hiện được rằng : Ồ, cái « niệm » (hay vọng tưởng) mà mình muốn dừng lại đó chính là từ sự nói thầm, khi dừng sự nói thầm thì cái niệm dừng, cái vọng tưởng dừng. Từ đó chúng tôi hiểu rằng không nói thầm thì dẹp tan các vọng tưởng. Từ đó chúng tôi trở nên an tịnh nội tâm được. Từ đó chúng tôi dụng công tu.

Hai năm đầu, từ năm 1975 đến năm 1977, chúng tôi « được » người ta nói là già 80 tuổi, thực sự lúc đó chúng tôi chỉ hơn 40 tuổi thôi. Chúng tôi không biết sao mình già mà mới có hai năm thôi. Rồi, chúng tôi tiếp tục riết cho tới năm 1982, khi chúng tôi ra miền Bắc. Thì chúng tôi nhận ra rằng : sự đối thoại thầm lặng hay sự nói thầm trong não của chúng tôi nó đưa đến thân tâm tàn tạ.

RFI : Lúc đó, có thể nói là Thiền sư đang ở trong trại cải tạo. Phải chăng điều kiện khắc nghiệt và khổ sở, cô lập trong trại như vậy khiến Thiền sư rơi vào trạng thái này ? 

Thiền sư Thích Thông Triệt : Không phải, lúc đó chúng tôi ở trong trại cải tạo như vậy, nhưng lúc đó nó là điều kiện thích hợp cho việc tu hành của chúng tôi, vì chúng tôi đâu có tiếp xúc với bên ngoài nữa. Đó là một điều kiện thuận lợi cho việc tu Thiền của mình thôi. Tu Thiền là để dừng vọng tưởng, nhưng lúc đó tôi không biết đấy là gì. Khi mà tôi nhận ra được vọng tưởng là sự nói thầm, điểm mấu chốt, thì chúng tôi thực hành để làm sao làm chủ được sự nói thầm đó. Cho nên chúng tôi nói rằng, cái mà Thiền tông gọi là « diệt vọng » thì không đúng, mà mình phải làm chủ vọng tưởng mới được.

Từ khi chúng tôi áp dụng cách không nói thầm trong não, thì trở nên một cậu thanh niên đẹp, trẻ, mà không phải là ông già 80 nữa. Bằng chứng là khi ông cán bộ đưa chúng tôi về Hà Tây, thì chúng tôi thấy rằng, những người kia như những con khỉ già, hốc hác. Ông cán bộ nói rằng, trong số các anh đây, anh này này ở đây lâu mà sao lại hồng hào. Nghe như thế, chúng tôi nói, à, như thế, chúng tôi thực hành đúng rồi đó. Đúng như thế nào, cái « nước » gì giúp cho tôi, thì thực sự chưa biết được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, phải có cái chất gì, cái « nước » gì trong đầu chúng tôi tiết ra đó để làm cho tôi được trẻ, trong sáng. Đấy là cái ý tưởng đầu tiên nó ghi trong đầu tôi là như thế.

Hiểu biết khoa học về não giúp cho thời gian tu tập được rút ngắn
RFI : Như thế là, bắt đầu từ cái kinh nghiệm đầu tiên mà Thiền sư cảm nhận được vào thời điểm năm 1982, đấy là khởi điểm mà Thiền sư tiếp tục đi về hướng nghiên cứu về quan hệ giữa bộ não và quá trình Thiền. Thiền sư có thể nói một cách rất đơn giản để thính giả bình thường có thể hiểu được là, nghiên cứu về não tạo điều kiện như thế nào cho việc hiểu về cơ chế của Thiền ? 

Thiền sư Thích Thông Triệt : Nếu hiểu biết về cơ chế của não bộ, thì một là mình thực hành mà không sợ sai lạc. Thứ hai là mình đốt được thời gian, thu ngắn được thời gian. Thay vì mình phải thực hành để khắc chế vọng tưởng, hay làm cho vọng tưởng không khởi lên nữa, thì mình không cần. Mình chỉ đi vào cơ chế là : không khởi niệm vọng tưởng nữa.

Trong não bộ cần phân biệt hai vùng. Vùng phía trước và vùng phía sau. Vùng phía sau theo thuật ngữ Thiền gọi là cơ chế của « Tánh giác ». Mình đi vào cơ chế này mà thực hành thì lẹ hơn là vào cơ chế phía trước. Ở phía trước, bên não phải là ý thức, bên trái là ý căn, ý trí năng. Bộ phận đó là thuộc về « tâm đời », tâm của người phàm phu, cứ dính mắc chuyện này, chuyện kia đó.

Chúng tôi nói rằng, cho mày nằm yên đó đi, tao đi vào ngõ này thôi. Chúng tôi « pha » (tức « bỏ qua » – tiếng địa phương Nam Bộ) cái vùng phía trước và đi thẳng vào phía sau. Phía sau là cơ chế của « Tánh giác ». Đi thẳng vào vùng phía sau thì phải biết các đặc tính của nó, chức năng của nó là gì. (Cơ chế đó) là biết mà không có lời nói thầm.
Cho nên bây giờ chúng tôi hướng dẫn Thiền, chúng tôi « pha » (bỏ). Chúng tôi biết rằng chúng ta có cơ chế phía trước như vậy, mà cơ chế này nó dính mắc, do những truyền thống nó ghi sâu đậm trong tâm mình, những day rứt nội tâm của mình nó tiềm tàng trong đó, những đam mê của mình nó tiềm tàng trong đó. Thế thì bây giờ một lúc làm sao mình gạt được những cái tâm đó được. Cho nên chúng tôi nói, thôi (cái vùng phía trước) cứ nằm yên đấy đi, chúng tôi hướng dẫn người thực hành đi thẳng vào cơ chế của « Tánh giác ».
Chúng tôi dạy học trò, nhưng lúc đó chúng tôi dạy nhưng chưa chứng minh được qua chụp hình não bộ. Phải đợi đến năm 2006, chúng tôi mời nhờ các học trò của chúng tôi ở bên Đức, liên lạc với các nhà não học ở bên Đức, hai ông Erb và Sitaram. Cho đến khi chụp hình não bộ được, thì chúng tôi mới biết cụ thể các vùng đó nằm ở đâu. Bây giờ chúng tôi hướng dẫn người thực hành Thiền đi thẳng vào cơ chế phía sau để làm sao làm yên lặng được nội tâm mình, mà mình không mất nhiều thời gian.

Như hôm qua, chúng tôi giảng dạy ở Poitiers, toàn là những người mới không, chưa bao giờ học Thiền. Cho họ vô, họ đi thẳng. Và họ thấy họ điều khiển được trạng thái rối bời của tâm họ. Nên chúng tôi thấy rằng, ngày nay, mình thực hành Thiền không mất nhiều thời gian. Ban đầu cần phải chỉ cho họ biết các vùng cụ thể cái đã. Bởi người ta có kiến thức, nó khác hơn Việt Nam mình. Tại Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng có nhiều người đi học Thiền không có đủ kiến thức khoa học về bộ não.

Trong một cuốn sách, chúng tôi có viết rằng, sau này nếu được, trong một trường trung học tại Việt Nam, ở lớp 10 nên cho học trò học Thiền để có khái niệm, thì thực hành dễ hơn. Lớp 10 thì có kiến thức (…).

RFI : Thưa Thiền sư, vừa rồi Thiền sư có nói đến buổi giảng tại Poitiers, trong vòng có hai ngày, người ta đã có thể có ý thức về chuyện đó rồi ? 

Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta làm được, chứ không phải có ý thức. Người ta làm được liền.
RFI : Cụ thể là làm được gì ? 

Thiền sư Thích Thông Triệt : Thí dụ chúng tôi dạy họ phương pháp thở, chỉ ở bước 1, bước 2 thôi. Những ý nghĩ trong đầu họ dừng hết tất cả. Chúng tôi hỏi, các vị có nói thầm trong đầu không ? Trả lời không có. Từ đó chúng tôi hướng dẫn họ thêm nữa. Chỉ có hai ngày thôi, chúng tôi hướng dẫn họ về lý thuyết và thực hành, họ làm được, khỏe khoắn, vui vẻ, điều chỉnh được bệnh tâm thể của họ. Thí dụ như, bệnh huyết áp, tim mạch rối loạn.

Các bệnh cao huyết áp, cao máu mỡ và rối loạn nhịp tim

RFI : Thưa Thiền sư, có những bệnh gì, mà trong quá trình Thiền sư giảng dạy, và hướng dẫn những người thực hành theo để có thể chữa được bệnh đó một cách nhanh chóng và hiệu quả?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Bệnh tim mạch, thí dụ như cao máu (cao huyết áp), cao máu mỡ, rối loạn nhịp tim, là nhanh chóng có hiệu quả liền tức khắc. Khi hướng dẫn Thiền, chúng tôi cho họ ghi lên bệnh của mình, nhưng không ghi tên của họ. Khi hết xong đưa cho chúng tôi, chúng tôi xếp loại. Ví dụ như có người bị mất ngủ kinh niên. Tôi mới giải thích, mất ngủ kinh niên là do trung tâm « giữ giờ » trong não bộ nó bị rối loạn. Ví dụ như chúng tôi hướng dẫn một cô nhìn bóng đen để điều chỉnh trung tâm giữ giờ đó. Khi nhìn bóng đen, cái đường con mắt đi vô nó đi ngang qua hạch nhân điều chỉnh việc ngủ thức của mình (tuyến tùng có hai tên gọi là "épiphyse" hay "glande pinéale"). Hạch nhân đó tiết ra chất melatonin.

RFI : Khi nghe Thiền sư mô tả quá trình chữa bệnh như vậy, nghe Thiền sư giống như một bác sĩ tâm lý. Có câu hỏi đặt ra là, giữa phương pháp Thiền theo đạo Phật và phương pháp chữa bệnh tâm lý rất hiện đại như vậy có gì liên hệ với nhau cụ thể là trong trường hợp kể trên ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dạy phương pháp nhìn ánh sáng. Ánh sáng này có thể là đèn hay nắng. Đường đi ánh sáng vô đâu ? Nhìn ánh sáng nắng thì nó vô mắt mình vào võng mạc (rétine), đi theo các đường chéo như hình như cái nón đó, rồi chạy lên đụng tuyến tùng. Tuyến tùng nó mới tiết ra serotonin, hay là melatonin nữa. Từ chất đó mà nó điều chỉnh bệnh mất ngủ hay bệnh trầm cảm. Như vậy, chúng tôi kết hợp với khoa học để đối chiếu lại. À, Phật dậy trong kinh đó, bây giờ hỏi vì sao nó điều chỉnh được ? Đó là nhờ những chất mà chúng tôi gọi là các « nước sinh hóa học ».

RFI : Thiền sư có thể nói về những cái bệnh mà Thiền sư nói là Thiền chữa rất là tốt, ví dụ như các bệnh về mỡ máu, hay bệnh tim mạch, … cụ thể như thế nào ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dậy mình cách thở. Khi thở vô, mũi mình có hai cái que (tức là bộ phận "bulbes olfactifs" hay hành khứu giác). (Thở vô) hai cái que đụng thẳng vô khu dưới đồi của mình, là Hypothalamus. Mà Hypothalamus là trung tâm tâm lý, tình cảm của mình đó. Rối loạn cũng nó, mà an ổn cũng nó, mà thánh thiện cũng nó luôn. Bằng hít thở vô nó đụng vào hai que đó liền, bằng tín hiệu nó đụng vào vùng dưới đồi liền. Đụng vô dưới đồi làm yên lặng nội tâm. Kế bên dưới đồi có trung tâm sợ hãi và điều khiển xúc cảm của mình nữa.

RFI : Cái vùng này tên khoa học là gì ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Amygdala. Nếu tập thở vô như vậy, nó đụng vào thần kinh đối giao cảm. Ở tận cùng của đầu dây thần kinh đối giao cảm thì tiết ra chất acetylcholine. Mà chính cái acetylcholine có vai trò điều khiển tim mạch. Một mặt nữa là thần kinh đối giao cảm khi trở về đụng vào thần kinh sọ não, thì nó đụng vào một hệ thần kinh khác, gọi là thần kinh phế vị, mà phế vị liên hệ đến phổi với nội tạng, hay là cả gan nữa. Nhờ thế mà nó điều chỉnh lại. Thành ra mình hít thở là mình tác động cùng một lúc vào ba hệ thống, đó là hệ thần kinh đối giao cảm, hệ thần kinh phế vị, và cái thứ ba thông qua hệ thần kinh đối giao cảm mà nó đụng được vào acetylcholine. Acetylcholine có ở nhiều nơi lắm. Từ cuống não cũng có, từ Dưới đồi cũng có, từ vùng thân thọ ở hai bên não bầu cũng có nữa. (…) Nhờ như thế mình mới ngừa được sốc ("strok", tức tai biến mạch máu não), điều chỉnh được tim mạch, máu mỡ. Lý do là acetylcholine khắc chế hai chất, đó là các chất (có thể) làm mình bị máu mỡ, là norepinephrine với epinephrine (hay còn gọi là noradrenaline và adrenaline).

RFI : Thiền sư nói như thế nghe như nếu ai đó có ý muốn thực hành phương pháp thiền này thì dường như có khả năng chữa được tất cả mọi bệnh. Nghe có vẻ như trong tầm tay mà không cần phải đi bệnh viện, không cần đến hiệu thuốc ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, nhưng không phải nó chữa được tất cả mọi bệnh đâu. Bệnh nào ra bệnh đó. Ví dụ như bệnh cần có acetylcholine, thì thở theo lối để làm acetylcholine.

Ngày nay, từ rối loạn não bộ nó dẫn đến nhiều bệnh khác. Ví dụ như bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức. Kể cả bệnh tiểu đường cũng do não bộ rối loạn. Vấn đề thiền là để làm gì ? Là để điều chỉnh hệ thống hoạt động của não bộ. Từ đó chúng tôi đưa ra phương pháp gọi là sự tương tác giữa Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân Tâm và Trí tuệ Tâm linh của con người.

Hiểu biết về cơ chế của bộ não giúp người tập Thiền tránh được các sai lầm 

RFI : Vừa rồi Thiền sư giải thích với các thính giả không biết gì về đạo Phật cả. Đối với những người đã đi xa hơn rồi, bắt đầu bước vào, họ muốn đi cao hơn nhưng họ còn lúng túng giữa các pháp môn khác nhau. Vậy Thiền sư có thể nói để riêng với những người đó được không ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Thực sự cái thiền nó khó, nhưng cũng không khó. Khó là như thế này : khó là vì người thực hành không gặp một người đã kinh nghiệm thiền để hướng dẫn mình. (Nhiều người không có kinh nghiệm) hướng dẫn theo sở ý của họ. Nếu theo như vậy, có thể mắc bệnh tâm thể. Đấy là điều khó. Còn dễ là nếu biết được chức năng của hai vùng não thì mình làm được hết. Mình cô lập vùng phía trước hay là đi vô vùng phía sau. Nhưng nhận ra chức năng của mỗi vùng là làm được. Muốn nhận ra được chức năng của mỗi vùng, phải có người có hiểu biết về não bộ. Ngày nay, có người biết về não bộ (là các nhà khoa học), nhưng họ không « thực hành » được. (…)

RFI : Tức là họ không phải là người sử dụng các hiểu biết tâm linh để tác động vào các vùng mà họ biết về mặt giải phẫu và mặt nghiên cứu, đúng không ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Lấy thí dụ như trong não bộ có một vùng rất hay gọi là vùng Wernicke (Vùng ngôn ngữ : hiểu, đọc, viết và ký ức ngôn ngữ).

RFI : Nó nằm ở đâu ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Nằm ở vùng Dưới não, khoa học gọi là vùng Ngôn ngữ thứ nhất. Nhưng các nhà khoa học đâu có biết cách « thực hành » được vùng đó. Điều đó khó. Còn mình, « người thực hành » thì biết, thực hành được, nhưng không biết chỗ nào để mà chỉ. Thành ra hai cái đó khác nhau.

RFI : Khi mình biết cách sử dụng khu vực này, thì có ý nghĩa gì ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Mình biết để đi cho lẹ, thay vì đi lòng vòng. Đi vùng khác thì cũng được nhưng lâu hơn. Vì sao, vì vùng này liên hệ đến vùng giữa não của mình nữa (vùng Gian não). Điều quan trọng nhất là làm sao điều khiển được cuống dưới đồi.

RFI : Tức là vùng Wernicke điều khiển được vùng Dưới đồi ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Không, nó không điều khiển mà tác động vào thẳng.

RFI : Như vậy, những điều Thiền sư nói có phải liên quan đến một hệ thống mà Thiền sư nói trong nghiên cứu của Thiền sư với các nhà khoa học ở Đức, về hệ thống Viền não ? Phải chăng Thiền sư muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nó trong quá trình tu tập thiền ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, trong tu thiền, hệ thống Viền não rất quan trọng. Là vì toàn bộ « tâm » của con người nằm trong này.

RFI : Bình thường, mình gọi là « tâm » hay « tinh thần », nếu mà không biết thì không hiểu nó nằm chỗ nào trong cơ thể, nhưng nếu theo Thiền sư và các nhà khoa học cộng tác, sau khi nghiên cứu, có thể chỉ ra vị trí của nó ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi. Nếu không biết chức năng của các bộ phận trong não bộ của mình, mà cứ thực hành thì một ngày nào đó sẽ bị bệnh tâm thể.

RFI : Thiền sư có thể cho một ví dụ để những người đang tập, hay quan tâm đến chuyện này có thể dễ hiểu. Tức là, khi tập thiền sai lạc thì bị mắc những bệnh gì ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta gọi là « tẩu hỏa nhập ma » đó. Thứ nhất là mắc bệnh cao máu, cao máu mỡ, tiểu đường, đó là ba thứ bệnh thông thường nhất mà mình dễ gặp. Rồi lần lần nó lên nữa là bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức.

Do mình thực hành sai lạc. Mình thực hành miên mật, nhưng sai lạc. Thay vì đừng tập trung tư tưởng vào đối tượng, thì mình cứ tập trung. Bên não phải mình sử dụng này, tập trung như vậy là mình tác động vào hệ giao cảm thần kinh. Mà đầu dây của các dây thần kinh giao cảm có tiết ra một chất hóa học là norepinephrine (còn gọi là noradrenaline). Khi chất này được tiết ra rồi thì nó đi theo máu, vô tuyến thượng thận, bắt đầu đến phần ruột thượng thận (phần giữa của tuyến thượng thận/glande médullosurrénale), thì nó tiết ra epinephrine (adrenaline). Nếu hai chất này bị tiết ra mãi mãi, thì một là tim mạch bị rối loạn, đường máu cao, và cuối cùng mất ký ức luôn. Do epinephrine trong tuyến thượng thận nó tiết hoài thì tác động vào vỏ thượng thận thì ra cortisol. Mà cortisol ra hoài thì mất ký ức (trí nhớ). Vì chất này theo máu lên não bó chặt tế bào não vùng ký ức khiến chúng chết. Sự tương tác này chúng tôi gọi là tương tác dây chuyền Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân Tâm và Trí tuệ tâm linh của con người là như thế.

Điều cơ bản là acetylcholine được tiết ra thì norepinephrine bị dẹp. (…) Khi mình yên lặng được thì hệ đối giao cảm hoạt động, các đầu dây của hệ này sẽ tiết ra acetylcholine (…) giúp cho chúng ta được cân bằng và hài hòa. Cái thuật ngữ của Thiền gọi là hài hòa, chính là mình hài hòa được các chất sinh hóa học trong não bộ của mình.

RFI : Xin cảm tạ Thiền sư đã dành thời gian quý báu của Thiền sư giúp thính giả hiểu biểt hơn về Thiền.

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

"Chiều Phi Trường" - Một tiêu biểu của cách viết nhịp điệu trong nhạc Lê Uyên Phương

Bạn,

Như có viết trong một bài trước, tôi đặc biệt thích cách đặt số lượng các chữ trong các bài hát của nhạc sĩ Lê Uyên Phương. Cách đặt này làm bài nhạc luôn luôn có một cái gì đó sôi động, nhấp nhỏm, không đoán trước được, mà cũng không lạ tai lắm để làm người nghe luôn thích thú. Bài "Chiều Phi Trường" là một thí dụ như vậy. (Xem nhạc bản : http://www.leuyenphuong.com/tapnhac/lup/ChieuPhiTruong.pdf )



Trước hết, trong phần 1 của phiên khúc 1, tác giả cho ta một cái sườn bài nhịp nhàng, tựa như khi ta nhảy các điệu vũ Nam Mỹ vậy. Công thức đó là:

1 - 2 3 - 1 2 3  4 5 - 1 2 3  4 5  6 7 - 1 2 3  4 5   6 7 8 9 10

Tôi - với em - dương trần vai   tiễn đưa - ngày hôm qua   trong nắng   thiên đường - ngày hôm nay  lo âu   tìm về nơi bến ngân.

Bạn hãy thử hát theo nốt nhạc, nhưng thay vì hát chữ thì đếm số như trên. Bạn thấy các chữ tăng theo một công thức, một mẫu (pattern) nhất định, một dạng công thức toán (mà vì trả hết cho thầy rồi nên tôi quên mất tên chuỗi lặp này.) Bài nhạc ngân nga, và kết ở các nhịp mạnh.

Ngay sau đó, trong phần hai của phiên khúc 1, nhạc sĩ sửa cấu trúc một chút và làm ngắn đi một cách đáng kể, hai nốt cuối "thời gian" điền luôn hai trường canh 7 và 8 thay thế cho câu thứ tư như phần 1.

1 - 2 3 - 1 2 3  4 5 - 1 2 3  4 5 6  7 8

Những - đóa hoa - phai hồng trong   mong chờ - xin hãy xanh   như thời gian   thời gian ...

Bạn thấy là có một cái cấu trúc, cái sườn rất vững chắc, nhịp nhàng là 4 trường canh đầu 1 - 2 3 - 1 2 3  4 5 làm bến để người nghe có thể định vị, để neo lại, còn sau đó là khai triển của nhịp điệu ấy, hoặc dài ra, hoặc ngắn đi, chõi (syncopation) một cách rất căn bản là 1/2 nhịp-1 nhịp-1/2 nhịp:

Hy vọng tôi sẽ tìm thời giờ quyết chí tìm hiểu từng bài nhạc trong hai tập nhạc để viết xuống thành các tiểu luận nhỏ, nhưng sau khi nghe đi nghe lại nhiều bài, tôi có thể kết luận sơ khởi là nhạc sĩ Lê Uyên Phương rất quan tâm đến cách tạo dựng một sườn bài với một nhịp điệu căn bản, rồi ông khai triển trên nền các nhịp điệu đơn giản đó. Trong bài này, nhịp điệu ấy là 1 2 3 - 1 2 3 4 5.

Trong phiên khúc thứ hai, cấu trúc rất giống như phiên khúc một, nhưng ở đoạn cuối, thay vì cho ít chữ thì nhạc sĩ lại bớt đi một chữ thành 2 chữ "sẽ quên" rồi chèn thêm vào hai chữ nữa là "hay còn yêu còn yêu nhân tình".

1 - 2 3 - 1 2 3  4 5 - 1 2  3 4 5  6 7  8 9

Những cánh chim - trong hồng hoang thiên đường - Sẽ quên - hay còn yêu  còn yêu  nhân tình

Bạn thấy là vì sườn bài đã có, những thay đổi tuy nhỏ nhặt này đã tạo một phong cách viết nhạc cho nhạc sĩ, trong đó nhạc sĩ tha hồ tạo những hiệu ứng nhỏ để làm cho nhịp điệu khi thì hối hả ("hay còn yêu còn yêu nhân tình"), khi thì khoan thai ("như thời gian, thời gian") không làm thính giả nhàm chán, mà cũng không làm họ chán nản vì quá khác biệt giữa các phiên khúc với nhau.

Trong bài trước, tôi có nhận xét là các kết thúc của câu của bài Buồn Đến Bao Giờ đều nằm trong các nốt ổn định. Trong bài này, tôi để ý thấy tỷ lệ cũng tương ứng như vậy

Tôi  với em (Si)- dương trần vai tiễn đưa (Do)- ngày hôm qua  trong nắng  thiên đường (Re) - ngày hôm nay  lo âu  tìm về nơi bến ngân (La).

Những  đóa hoa (La) - phai hồng trong   mong chờ (Re)- xin hãy xanh  (Si) như thời gian (La)  thời gian  (Re) ...

 Tôi với em (Si) -xin cùng xây ước mơ (Do)- Dù mai đây xa cách muôn trùng (Re)- dù mai đây nơi xa phồn hoa không thiết tha (La)...

Những cánh chim (La) - trong hồng hoang thiên đường (Re)- Sẽ quên (Si) hay còn yêu  (La) còn yêu  nhân tình (Sol)


Bạn thấy chỉ trừ những chỗ in đậm cuối câu Do và La là chỗ để các hợp âm hoặc át như D7 hoặc thứ như La thứ, có tính cách không ổn định, cần phải giải tỏa để trở về ổn định, các chỗ khác đã ổn định sẵn rồi, nên rất phù hợp với giai điệu ngân nga, nhịp nhàng của tiết tấu. Các biến đổi làm câu nhạc linh động đã xảy ra trong thân bài của từng câu nhỏ, như chỗ in đậm trong "ngày hôm qua trong nắng thiên đường" chẳng hạn, để tới cuối câu thì nhạc sĩ tìm cách về lại một trong ba nốt ổn định (đa số), hay (đôi khi) không ổn định tùy theo tâm tư của dòng giai điệu đang chảy.

Sau khi cho thính giả thưởng thức hai phiên khúc với thật nhiều nhịp chõi, nhạc sĩ tạo cảm giác nghỉ ngơi trong đoạn điệp khúc bằng cách cho chúng ta một câu nhạc với nhiều nốt một nhịp (quarter note) như "Một lần xa cách""Buồn ơi ướt vai", xen lẫn với các nhịp chõi. Sau cùng, để nhấn mạnh "cái sự buồn" nhạc sĩ cho hát đi hát lại ba lần "cho dòng nước mắt, cho dòng nước mắt, cho dòng nước mắt" rồi mới kết là "trôi mau". Trôi mau mà phải nhắc đi nhắc lại thì dòng nước mắt này chắc là trôi cũng chậm, nghịch lý, nghịch lý ... mà lại cũng có lý! Đó là cái sự buồn đau đớn mà nhạc sĩ Cung Tiến nhắc đến chăng?

Ở đoạn phiên khúc cuối, phần lớn các biến thể của tiết tấu đều như tôi đã phân tích ở trên, chỉ muốn thêm một điều nhỏ là các chữ "vùi sâu theo tháng năm" với chữ năm kết ở nhịp 3, là nhịp yếu hơn nhịp 1, do đó làm câu cảm thấy bị hụt hẫng, đây là một hiệu ứng rất hay, tạo thêm cảm xúc cho lời nhạc.

Trên đây là các để ý nhỏ về phần nhạc của bài Chiều Phi Trường, cũng như lần trước tôi xin dành phần phân tích lời cho một bài viết khác. Theo tôi nghĩ, các bài nhạc này phải được xem là các bài nhạc nhỏ trong hai trường ca chính là "Yêu Nhau Khi Còn Thơ" và "Khi Loài Thú Xa Nhau", trong đó các ý tưởng yêu ghét giận hờn nhớ thương v.v. được mô tả như là một nhật ký của một người tình về các mối tình của mình, do đó chúng phải được phân tích trong cùng một bài viết.

Xin hẹn gặp lại bạn ở một bài viết tiếp.

Hoctro
6/2/2011
Girls Generation - Korean