Bạn,
Cuối tuần qua tôi mua được quyển sách rất hay của ông Rob Kapilow, tựa đề "What makes it great?". Tựa đề khó dịch thoát quá, nhưng quyển sách này có cái rất đặc biệt là tìm hiểu những điều thật hay của một tiểu phẩm, chỉ một mà thôi, của mười tám đại nhạc sư nhạc cổ điển, kể từ Vivaldi, Bach, tới Mozart, Beethoven, Shubert, Chopin, rồi kết thúc ở Claude Debussy.
Để giới thiệu sách, tác giả có cho xem thử chương đầu tiên, trình bày cặn kẽ những điều hay ý lạ từ chương đầu của khúc "Mùa Xuân" trong bộ "Bốn Mùa" của nhạc sư Antonio Vivaldi:
http://media.wiley.com/product_data/excerpt/29/04705509/0470550929-121.pdf
Cái hay nhất của sách, là thay vì chỉ đọc và nhìn nhạc trên giấy, thì tác giả và nhà xuất bản đã tốn nhiều thời gian để đem từng hình ảnh ấy thành video để người đọc có thể xem nhạc và nghe cùng lúc trên computer:
http://videoblast.wileypub.com/MEDIADEV/550922_Kapilow_What_makes_it_great/Interface.html
Mấy ngày qua, khi rảnh rỗi lúc cuối ngày, tôi hay mang sách ra đọc từng chút từng chút, và tôi cũng đang "gặm nhấm" chương đầu, vậy thì cũng không đọc trước bạn nhiều lắm đâu.
Nếu bạn có bao giờ nghe "Mùa Xuân" của Vivaldi với giai điệu khởi đầu bằng tiếng chim hót, rồi bầy chim phụ họa theo, v.v. , biết bài thật hay, nhưng không hiểu vì sao nó hay (hence: what makes it great?), thì chương một của sách sẽ trả lời cho bạn điều đó. Một cách rất cụ thể, là đi từ motif thật nhỏ, sang câu nhỏ, rồi lan tới một đoạn.
Rất mong bạn sẽ in pdf chương Một nói trên và đến trang minh họa để xem và nghe nhạc. Và mua sách nữa, nếu có phương tiện.
Thân mến,
***
Tái bút: Một trang khác gồm những bản phát thanh "What makes it great?" của ông Rob Kapilow:
http://www.npr.org/artists/91234412/robert-kapilow
***
Bản dịch thoát chương 1 của Hoctro:
Antonio Vivaldi
(1678-1741)
"Mùa Xuân" - Đoạn 1 từ tác phẩm "Bốn Mùa"
***
"Nếu bạn không thích tác phẩm này, tôi sẽ ngưng viết nhạc!" (Vivaldi)
Từ nổi tiếng, rồi bị quên lãng, rồi lại nổi tiếng
Tác phẩm Bốn Mùa của Vivaldi đã trở thành một trong những nhạc khúc cổ điển phổ thông nhất thế giới, nhưng sự nổi tiếng này thực ra chỉ gần đây mới có được. Khi Vivaldi qua đời trong túng quẫn năm 1741, ông đã dần dần bị người đời thời ấy cho vào quên lãng - ông là nạn nhân của sự thay đổi đột ngột trong cảm quan hưởng thụ của quần chúng. Ông được chôn cất trong khu dành cho người nghèo khó trong một nghĩa trang nhỏ ở thành phố Vienna, và cũng một khoảng thời gian dài chẳng ai biết ông đã được chôn cất ở đó, mà cũng chẳng ai thèm để ý đến số phận của ông. Suốt gần hết sự nghiệp chơi vĩ cầm và soạn nhạc của ông, ông rất thành công, phổ thông trong dân chúng, và có ảnh hưởng trong giới chơi nhạc. Cho dù ông soạn khoảng 500 concertos và 90 operas, suốt gần hai trăm năm sau khi ông qua đời, chỉ có một vài sử gia và người nghiên cứu nhạc biết đến tên ông mà thôi.
(Trang 6)
Thế kỷ hai mươi vừa qua đã dấy lại phong trào nghe nhạc Baroque, kể cả phần nào thích thú tìm hiểu kho tác phẩm của Vivaldi, nhưng cho đến khi công ty thâu dĩa Cetra ở Ý tung ra bộ đĩa "Bốn Mùa" năm 1950, thì tên tuổi của Vivaldi mới thực sự được phóng thẳng vào trí tưởng tượng của quần chúng.
Nếu đem so sánh sự thành công tột bực của tổ khúc Bốn Mùa, giới thưởng ngoạn sẽ rất ngạc nhiên về sự lờ mờ trong các chi tiết sử học về sự ra đời của chúng. Điều mọi người biết chắc chắn là Bốn Mùa được xuất bản năm 1725 (ba năm sau bộ Một của tác phẩm Well-Tempered Clavier của J.S. Bach) như là 4 concertos đầu của 12 tác phẩm dưới tựa đề "Sự tranh tài giữa Hòa Âm và Ý tưởng (Invention)." (Trong chương hai của quyển sách này, ông Kapilow nói rõ hơn thế nào là invention, nó như là một motif, bước thứ nhất trong phương pháp viết nhạc của Bach - hoctro) Tuy nhiên, lời đề tặng tới Count Wencelas Morzin với lời xin lỗi là đã đề tặng những tác phẩm mà ông "đã biết rồi" cho thấy tác phẩm đã được soạn ra trước năm 1725. Do vậy, tác phẩm này được viết khi nào, tại sao nó ra đời, và để tặng ai vẫn còn là ẩn số.
Bốn Mùa là một trong các tác phẩm được chú thích nhiều nhất, Vivaldi bỏ nhiều công sức để làm rõ nghĩa của từng đoạn nhạc. Tác phẩm được xuất bản với những vần thơ đầy tính cách mô tả (descriptive sonnets) ngay trước từng concerto, từng dòng thơ đều được đánh dấu bằng chữ cái, để sau đó chữ cái này đặt đúng chỗ thích hợp trên đoạn nhạc, do đó rất dễ hiểu là đoạn nhạc nào dùng minh họa cho dòng thơ nào. Vậy mà chúng ta cũng không có bằng chứng tin cậy là ai đã viết những câu sonnets này (các nhà nhạc học đều cho rằng chính Vivaldi đã viết xuống) cũng như những câu thơ được viết trước hay sau khi tác phẩm ra đời.
Một trong những nguyên nhân chính mà Vivaldi không chìm vào quên lãng vì những nhà nhạc học chuyên nghiên cứu về J.S. Bach liên tục bắt gặp những trang nhạc Bach chuyển thể (transcribed) từ những concertos của Vivaldi. Toàn bộ phương cách mà Bach dùng để sáng tác concerto sau này đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ Vivaldi, theo đó Bach đã viết lại từ một số concertos của Vivaldi thành 6 concertos cho harpsichord, 3 cái cho organ, một cho bốn cây harpsichords và dàn nhạc đàn dây. John Forkel, sử gia đầu tiên về Bach, viết rằng khi Bach chuyển thể những concertos của Vivaldi, ông đã không chỉ đơn thuần là muốn học cách sáng tác concertos, nhưng những bản chuyển thể này thật sự chỉ là "một phương tiện nhằm mục đích học cách suy nghĩ có thuần tính âm nhạc." (learning how to think musically)
Vậy thì Bach đã học được gì từ Vivaldi? Chúng ta hãy dùng chương đầu - mà có lẽ cũng là chương nổi tiếng nhất mà Vivaldi đã từng viết ra - trong concerto Mùa Xuân của tác phẩm Bốn Mùa như là một cánh cửa sổ để ghé vào xem luồng suy nghĩ âm nhạc của Vivaldi.
Một đối chọi với Số Đông
Concerto này được chào đời như là một thể loại soạn nhạc hòa tấu ở hai thập niên cuối của thế kỷ mười bảy, sau năm 1700 thì thể loại này trở thành thể loại độc tôn của nhạc Baroque.
(trang 7)
Căn bản là có hai loại concerto kiểu Baroque. Một là concerto grosso, do vài người trình tấu với ban nhạc; hai là solo concerto, chỉ có một người trình tấu với ban nhạc phụ họa. Cả hai cách đều nhằm mục đích phô diễn sự tương phản giữa hai khối âm sắc (sonority): giữa một hay vài ba nhạc sĩ độc tấu với cả dàn hòa tấu đồ sộ. Một đối chọi với Số Đông. Sự tương phản giữa hai khối lượng âm thanh mất cân đối này - căn bản của loại nhạc concerto - không chỉ đơn thuần là tương phản âm thanh lớn nhỏ, mà cũng là tương phản trong cách biểu lộ cảm xúc. Đi tìm một phương cách để có thể diễn đạt những tương phản của âm thanh và cảm xúc là một thử thách tiên quyết nhất để viết một concerto, và phương cách mà Vivaldi đã sử dụng dần dần trở thành cách thông dụng nhất của thời Baroque.
Puccini có nói rằng mở đầu là yếu tố quyết định cho sự thành công của nhạc phẩm (beginnings are everything), và đó chính là một trong những yếu tố làm nên sự thành công tột bực của Vivaldi. Cũng hệt như cá tính căn bản của một bài nhạc kịch được thiết lập bởi ý tưởng ở đầu bài (như trong bài "Over the rainbow" hay "I've got Rhythm"), cá tính căn bản của một chương trong một bản concerto của Vivaldi được thiết lập qua phần hòa tấu ở phần đầu giới thiệu bài, có tên gọi là ritornello. Mở bài này không chỉ mau chóng tạo ra thế giới biểu cảm của bản concerto, nó còn cho ta chất liệu căn bản chính của chương nhạc: những chất liệu mà sau đó sẽ lặp đi lặp lại, ở dạng nguyên thủy hay được biến đổi đôi chút, như một dạng điệp khúc để người nghe biết mình đang ở đâu. Vì đoạn ritornello mở đầu chương "Mùa Xuân" là một thí dụ tiêu biểu cho lối viết đã làm Vivaldi nổi tiếng, hãy mổ xẻ đoạn đó ra xem tại sao nó lại thành công như vậy.
Hình ảnh lấy từ: http://robkapilow.com/books.shtml
Chương Một - Antonio Vivaldi:
http://media.wiley.com/product_data/excerpt/29/04705509/0470550929-121.pdf
Xem và nghe nhạc cùng lúc: http://videoblast.wileypub.com/MEDIADEV/550922_Kapilow_What_makes_it_great/Interface.html
"Mùa Xuân Tới Rồi!"
Trước khi nói đến những tiểu tiết của phần âm nhạc, những số liệu nho nhỏ về nhạc phẩm cũng thật thú vị. Đoạn ritornello mở đầu dài 50 nhịp. Buốn mươi bốn trong số đó dùng chung hợp âm Mi Trưởng. Nếu tính chung với phần solo theo sau 102 trong số 108 nhịp của bài dùng Mi Trưởng! Trước khi Philip Glass và những nghệ sĩ thuộc trường phái giản thiểu xuất hiện trên vòm trời âm nhạc, chưa có khúc nhạc nào được mở đầu với phần hòa âm sơ đẳng như vậy.
Thật ra có hai ý căn bản trong phần mở đầu ritornello này , nhưng bề ngoài đơn giản của chúng đã làm thành những chi tiết nhỏ có ảnh hưởng sâu đậm hơn, làm người nghe dễ hiểu và dễ cảm nhận hơn. Vài chi tiết nhỏ này nằm ở phần tiết tấu. Để hiểu thấu đáo, tôi viết xuống một đoạn mở đầu khác, trong đó tôi giữ những nốt nhạc căn bản, nhưng loại vỏ đi tiết tấu thú vị của Vivaldi (Xem thí dụ 2A)
Nếu bạn vỗ tay theo nhịp trong thí dụ tôi viết: 5 nốt ngắn và một nốt dài hai lần (ssssl,sssssl), bạn sẽ thấy ngay nhịp điệu sao mà tẻ nhạt đến vậy.
Bây giờ hãy thử vỗ nhanh 2 nốt móc đôi theo bản của Vivaldi (ssss+al) để thấy một nguyên lý căn bản mà tôi sẽ nói tiếp theo đây.
Hãy bàn đến tinh yếu thứ nhứt. Từ thời Vivaldi đến nhạc đương đại, sự lặp lại (repetition) luôn luôn là điều căn bản nhất để có thể hiểu, cảm nhận một bài hát. Trong âm nhạc cũng như trong đời sống thường nhật, sự lặp lại là một trong những điểm chính làm ta có thể hiểu và nhớ sự vật. Sự lặp lại là tinh yếu của phần mở đầu của bản "Mùa Xuân". Mọi ý tưởng trong phần ritornello đều dựa trên sự tự lặp lại cũng như lặp lại nội tại - sự lặp lại bên trong của mỗi câu, cũng như sự lặp lại của toàn câu nhạc nữa. Nhửng sự lặp lại này cũng rất cầu kỳ. Ý tưởng ở câu mở đầu thì được bắt đầu bằng một cú nhảy hướng lên (leap up) từ Mi tới Sol thăng.
Sau đó, nếu câu được nhắc lại hoàn toàn thì sẽ phải giống như sau:
Tuy nhiên, Vivaldi đã thế cú nhảy đó bằng ba-nốt-đi-xuống: Si-La-Sol thăng.
Rồi sau đó ba nốt này trở thành ba nốt đầu tiên của câu cuối, là câu đóng mạch suy nghĩ.
Forkel đã viết: cái cảm giác tất yếu, không thể tránh khỏi (the feeling of inevitability) mà ta cảm nhận được trong nhạc của Bach bắt nguồn ở chỗ mỗi chuyển đoạn đều bắt buộc phải có một liên hệ tới ý tưởng đi trước, và phải cho thấy là nó là hệ quả cần thiết của ý tưởng đi trước ấy.
Dùng một phần của một ý tưởng đi trước (3 nốt trong thí dụ 3C) để tạo ra âm nhạc theo sau (thí dụ 3D) là một kỹ thuật mà Bach đã lãnh hội được từ những đoạn nhạc như thế này của Vivaldi.
Vivaldi dùng hết mọi phương tiện ông có trong tay để làm đẹp đoạn kết của câu mở đầu.
Giai điệu trong hai trường canh đầu được chơi bởi 2 violin chính, trong khi hai violin thứ yếu thì rõ ràng làm nhiệu vụ đi bè. Tuy nhiên, ở trường canh thứ ba, hai violin phụ đã hòa theo với hai violin chính với các nốt rất gần các nốt chính, như thể câu nhạc solo đã trở thành một câu hát đôi (duet) để đóng câu nhạc lại. Cùng lúc đó, phần bass, mà trong hai trường canh trước chỉ chơi có một nốt Mi, đã tăng tốc độ và đổi nốt cũng như hợp âm nhanh để kết thúc câu nhạc.
Tóm lại, tất cả những chi tiết nhỏ nhặt tuyệt diệu này - những biến thể của sự lặp lại trong giai điệu, hòa âm tuyệt đẹp của hai cây violin phụ, tự tăng tốc của phần bass, những thay đổi về nốt nhạc và hòa âm - làm chúng ta có thể cảm nhận được ngay dù chỉ mới nghe lần đầu. Có lẽ quan trọng nhất là toàn bộ câu mở này là một mô tả toàn hảo nhất của Vivaldi - một bậc thầy trong lối vẽ phác thảo - về cái cốt lõi nhất của câu thơ "Mùa Xuân đã tới rồi đó!"
Như tôi có nhắc tới ở trên, sự lặp lại là một trong các thành tố căn bản trong lối soạn nhạc của Vivaldi. Chúng ta đã tìm hiểu qua về cách ông lặp lại ra sao trong câu nhạc mở đầu. Sau khi cho ta nghe ba trường canh đầu, Vivaldi cho ta nghe lại toàn bộ lần thứ hai (trường canh 4 đến 6) nhưng với phong cách trình tấu êm dịu hơn, như là một kinh điển cùa lối tạo âm vang (echo) của nhạc thời Baroque. Một lần nữa, loại echo này là một phong thái làm người nghe có thể dễ dàng cảm nhận. Chúng ta được nghe lại một lần thứ hai những tiểu tiết thật tuyệt diệu của câu nhạc, cùng lúc thưởng thức những âm sắc và cảm giác về câu nhạc khi nó được chơi một cách êm dịu hơn. Tạo một dáng dấp bên ngoài của âm nhạc, do vậy, góp phần chính tạo nên sự thành công của bản nhạc.
(còn tiếp ...)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét