Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Vài cảm xúc về bản dịch mới nhất của Leaqua, bài Michele (Gerard Lenorman trình bày)

Bạn,

Nếu bạn theo dõi blog tôi khoảng chừng một năm nay, bạn sẽ thấy tôi hay giới thiệu những bản dịch của bạn Leaqua, một đọc giả trang hoctroviet khoảng chừng một năm rưỡi nay. Với lòng yêu thích nhạc nói chung, nhạc ngoại quốc nói riêng của thời 70-80, cộng với một tâm hồn yêu thơ, hiểu thơ, và nhất là một sức sáng tạo bền bỉ, đều đặn, 10 tháng vừa qua Leaqua đã cho ra đời khoảng trên 52 bài dịch lời Việt. Tức trung bình một bài một tuần! Các bài dịch rải đều từ nhạc của nhóm The Beatles, ABBA, The Carpenters, The Bee Gees, rồi đến nhạc Pháp, nhạc Mỹ, v.v.

Leaqua có gom lại lời Việt, lời gốc cũng như Youtube videos để bạn có thể hát theo ở trang này:

http://nhacloiviet-leaqua.blogspot.com/

hay nếu bạn muốn xem các bài dịch mới, cũng như vài dòng chia xẻ về xuất xứ và nguồn cảm hứng để sáng tác lời nhạc, thì mời bạn vào trang này:

http://leaqua.blogspot.com

Với bản dịch mới nhất "Michele" của nhạc sĩ kiêm ca sĩ Gérard Lenorman,  ( http://leaqua.blogspot.com/2011/09/michele-gerard-lenormand.html ) Leaqua đã một lần nữa chứng tỏ tài nghệ chuyển lời xuất sắc qua những lời ca diễn tả những cung bậc tình cảm trinh nguyên của tuổi mới lớn, xen lẫn những mất mát, muộn phiền và chua xót của một tình yêu đầu đã chìm vào kỷ niệm. Cái lạ của cách đặt lời của Leaqua là sự giản dị của câu hát, đọc thoáng qua mà không hát lên thì sẽ thấy có vẻ là tầm thường, nhưng khi khe khẽ hát theo, bạn mới cảm được cái tài tình của cách đặt những chữ "đắt" ở những nốt nhạc cao trào (cũng như xuống trào.)



***




Grand Palais thênh thang chân bước vui
Tuổi mười lăm ngơ ngác đón sớm mai
Làn tóc vờn gió thoáng hương
Cho ai nhớ thương?



Ngay ở đoạn đầu, Leaqua đã chuyển dịch một câu tầm thường đi với nhạc "Tu habitais tout près, du Grand Palais" (em là cô "láng giềng", ở gần khu Grand Palais) thành hai câu "Làn tóc vờn gió thoáng hương Cho ai nhớ thương?" Thoáng hương mà đi với nhớ thương thì đúng quá rồi còn gì?

Vô tư tung tăng con phố xưa
Gặp em mỗi sớm trưa chuyến tàu quen
Ngồi bên nhau
Làm quen với em
Ta cười vu vơ wớ wơ


Trong đoạn tiếp theo, ta thấy sự giản dị, vô tư của nét nhạc cũng như lời gốc - và lời dịch - được thể hiện một cách thật nhẹ nhàng, trình tự. Đi tàu xe điện ngầm chung, ngồi bên nhau, hoặc nhường chỗ cho người đẹp, maybe?, thì làm quen là chuyện tất nhiên rồi, có mất mát gì đâu một lời chào buổi sáng tươi đẹp bonjour của người tây phương? rồi cười vu vơ với nàng ?

Michèle !
Tình ngỡ đã rất xa
Chiếc hôn ban sơ vụn bỡ ngỡ
Tay em run khẽ rất nhanh
Ngọt như chocolat
Nồng say em với ta


Đoạn điệp khúc tiếp tục mô tả thật tài tình ngôn ngữ, cảm xúc của những người yêu và được yêu với những "ban sơ", "vụn", "bỡ ngỡ", "run khẽ", một thế giới trong đó chỉ có hai người "nồng say em với ta". Những nốt nhạc với lời ca tưởng như chỉ dành riêng cho thế giới Pháp ngữ, qua lối dịch tài tình của Leaqua đã mặc một tấm áo Việt, rất hiện đại mà cũng rất riêng tư, và nhất là chuyển tải thật đầy đặn cái giai điệu ray rứt, đầy hối hả ở đầu điệp khúc mà cũng rất khoan thai ở cuối câu ("em với ta")

Em xinh em tươi trên mỗi bước chân
Nụ hoa dang cánh nhỏ tím bâng khuâng
Mười bảy mùa xuân hát ca
Em đến với ta

Ngây thơ như trang giấy trắng tinh
Là ánh mắt sáng trong mỗi bình minh
Ngồi xem phim
Chuyện vui mãi quên xem Marilyn


Đoạn hai tiếp tục kể về chuyện tình của đôi tình nhân trẻ, sự trong trắng tinh khôi của họ thể hiện rõ nét bằng hai ý tưởng "Ngây thơ như trang giấy trắng tinh, Là ánh mắt sáng trong mỗi bình minh" Đối với chàng, người đẹp bốc lửa Marilyn Monroe trên phim kia thì có thấm chi nếu so sánh với người đẹp đang ngồi bên cạnh? Chỉ tiếc là Leaqua bỏ sót mất điển tích "Yesterday" là bài hát của nhóm The Beatles, mà Leaqua cũng đã nhắc qua về thiếu sót đó trong phần ý kiến bạn đọc.

Michèle !
Ngày đó em lãng quên?
Tuyết rơi
Cho môi tìm môi mãi
Cho trinh nguyên cuống quít trao
Rồi mai tóc sẽ phai
Mùi hương em gửi ai...

Trong điệp khúc thứ hai, những "chiếc hôn ban sơ vụn bỡ ngỡ" của điệp khúc một đã chuyển thành một nhịp điệu hối hả, "Cho môi tìm môi mãi Cho trinh nguyên cuống quít trao," xen lẫn một cảm giác sợ hãi cho tình yêu của ngày sắp tới, "Rồi mai tóc sẽ phai, Mùi hương em gửi ai..." Ý tưởng thật là Việt Nam, đó là "rồi mai tóc sẽ phai" cũng như khéo léo nhắc lại cái mùi hương thoáng qua trong gió ở phiên khúc một. Những chi tiết nhuộm màu sắc Âu Châu như tuyết rơi trên nóc nhà, rồi ngủ say bên nhau như trong một câu chuyện xưa của Pháp mà tôi đã quên tên đã được Leaqua khéo léo lược bỏ.

Thu đi qua đi xa đã mấy thu
Trời Paris u ám tiếng mưa xa
Em đã là khúc hát xưa
Đau phút tiễn đưa

Em bên ai cho tim anh giá đông
Ngồi bên suốt chuyến xe không là em
Ngồi bơ vơ
Cà phê đắng trên môi từng phút nhớ

ĐK
Michèle !
Ngày đó đã rất xa
Phố xưa vẫn vẫy chào ta nhớ
Hôm qua xa như giấc mơ
Tàu hôm nay vắng em
Mình ta nhớ với ta

Michèle !
Ngày đó đã rất xa
Chuyến xe chẳng chở tình em mãi
Hôm qua xa như giấc mơ
Tàu hôm nay vắng em
Mình ta nhớ với ta
...........
Ngày đó đã rất xa...



Trong đoạn ba này, những chi tiết vui tươi, đầy kỷ niệm của hai đoạn đầu đã được Gerard nhắc lại thật tài tình, và được Leaqua phóng tác sang Việt ngữ cũng tài tình và đầy tính sáng tạo không kém, với những hình ảnh như "Trời Paris u ám tiếng mưa xa", rồi nhất là Em đã là khúc hát xưa. Ồ! Yesterday có đó chứ, nhưng đã được mang một ý nghĩa khác, vì em chính là "Yesterday", để anh ngậm ngùi hát "Mình ta nhớ với ta". 


Leaqua có biệt tài sáng tác lời nhạc buồn, có lẽ vì thế người viết bài này đã tìm cách đa dạng phong cách sáng tác đó bằng cách nhờ Leaqua dịch bài nhạc vui vui, xen lẫn tí buồn man mác như bài Michele này. Vậy mà khi mô tả cái sự buồn, Lequa cũng "thảy" vào được một chữ buồn mà cũng thật "đắt", đó là chữ đau trong "Đau phút tiễn đưa", ngắn gọn thôi mà đầy đủ vô cùng. Chắc lần tới người viết bài sẽ tìm một bài vui thiệt vui như bài "All You Need Is Love" (của The Beatles) chăng? Cho Leaqua hết dịp bỏ những câu buồn ;-) 


Tàu hôm nay vắng em 
Mình ta nhớ với ta

Cái CODA day dứt này thật là một kết thúc "mở", tạo nhiều cảm xúc cho người nghe, và đó cũng là một trong những "tuyệt chiêu thức" cần phải có của người dịch nhạc giỏi, phải biết cách viết những câu bỏ ngỏ như vậy, để người nghe có chỗ tự do tưởng tượng theo ý mình ...

Bài viết đã dài, hoctro phải đi làm. Xin dừng bút và hẹn bạn bài viết tới.

Ngày cuối tháng 9, 2011

Hoctro

***

Tái bút: viết xong bài này rồi tôi mới chợt nhớ là bài do Didier Barbelivien sáng tác, ông này cũng là ca sĩ nữa và hát nhiều bài cũng rất hay. Trước đây, tôi có đăng một video ông hát ở trang nhạc Pháp:



Xin cáo lỗi cùng bạn đọc là tôi nhớ nhầm Gerard Lenorman là người sáng tác.

Nhân tiện tôi muốn đăng thêm một video của hai ca sĩ mà tôi rất ngưỡng mộ, Gerard Lenorman và Marie Laforêt.

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Blog Học Trò Việt mặc áo mới: "Dynamic View"

Bạn,

Nếu bạn xem được trang Học Trò Việt và thấy giao diện mới, chúc mừng bạn: bạn có một browser "hại điện". Bạn có thể thử trên trang bạn một trong bẩy cách nhìn từ cái sidebar menu. Tôi phân vân không biết chọn cái nào để dùng cho blog, cuối cùng đành chọn cái mà bạn thấy dưới đây:



Nếu bạn không có browser đời mới thì cũng không sao, bạn sẽ được dẫn tới trang đời cũ:


Tôi là người khoái thử mấy thứ đồ mới của Blogger, và lần này tính năng Dynamic View thật sự cuốn hút tôi!!! It blows my mind away, so to speak!

Bạn có blog mà muốn sửa theo cũng dễ, trước tiên là phải chọn cái "feed" là full thì mới chạy được:

Thay ở Dashboard kiểu mới:


hay kiểu cũ:


Sau đó vào Design, chọn Template Designer, thì bạn sẽ thấy hình đầu tiên có tên là Dynamic View:


Thế là xong.

Cái bất tiện hiện nay là dynamic view chưa cho phép cài đặt javascript, nên cái Yahoo Media Palyer nghe nhạc của tôi hiện chưa sử dụng được, hy vọng Blogger sẽ cho phép thêm javascript vào trong tương lai.

Xem thông tin đầy đủ về Dynamic View ở đây:

http://buzz.blogger.com/2011/09/dynamic-views-seven-new-ways-to-share.html



Chúc bạn một ngày thật an lành,

Hoctro

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

Giới thiệu sách "What makes it great" - Trích dịch Chương 1 Phân Tích Mùa Xuân (Spring) trong bộ "Bốn Mùa" (The Four Seasons) của Antonio Vivaldi

Bạn,

Cuối tuần qua tôi mua được quyển sách rất hay của ông Rob Kapilow, tựa đề "What makes it great?". Tựa đề khó dịch thoát quá, nhưng quyển sách này có cái rất đặc biệt là tìm hiểu những điều thật hay của một tiểu phẩm, chỉ một mà thôi, của mười tám đại nhạc sư nhạc cổ điển, kể từ Vivaldi, Bach, tới Mozart, Beethoven, Shubert, Chopin, rồi kết thúc ở Claude Debussy.



Để giới thiệu sách, tác giả có cho xem thử chương đầu tiên, trình bày cặn kẽ những điều hay ý lạ từ chương đầu của khúc "Mùa Xuân" trong bộ "Bốn Mùa" của nhạc sư Antonio Vivaldi:

http://media.wiley.com/product_data/excerpt/29/04705509/0470550929-121.pdf

Cái hay nhất của sách, là thay vì chỉ đọc và nhìn nhạc trên giấy, thì tác giả và nhà xuất bản đã tốn nhiều thời gian để đem từng hình ảnh ấy thành video để người đọc có thể xem nhạc và nghe cùng lúc trên computer:

http://videoblast.wileypub.com/MEDIADEV/550922_Kapilow_What_makes_it_great/Interface.html

Mấy ngày qua, khi rảnh rỗi lúc cuối ngày, tôi hay mang sách ra đọc từng chút từng chút, và tôi cũng đang "gặm nhấm" chương đầu, vậy thì cũng không đọc trước bạn nhiều lắm đâu.

Nếu bạn có bao giờ nghe "Mùa Xuân" của Vivaldi với giai điệu khởi đầu bằng tiếng chim hót, rồi bầy chim phụ họa theo, v.v. , biết bài thật hay, nhưng không hiểu vì sao nó hay (hence: what makes it great?), thì chương một của sách sẽ trả lời cho bạn điều đó. Một cách rất cụ thể, là đi từ motif thật nhỏ, sang câu nhỏ, rồi lan tới một đoạn.

Rất mong bạn sẽ in pdf chương Một nói trên và đến trang minh họa để xem và nghe nhạc. Và mua sách nữa, nếu có phương tiện.

Thân mến,

***

Tái bút: Một trang khác gồm những bản phát thanh "What makes it great?" của ông Rob Kapilow:

http://www.npr.org/artists/91234412/robert-kapilow


***

Bản dịch thoát chương 1 của Hoctro:

Antonio Vivaldi
(1678-1741)

"Mùa Xuân" - Đoạn 1 từ tác phẩm "Bốn Mùa"

***

"Nếu bạn không thích tác phẩm này, tôi sẽ ngưng viết nhạc!" (Vivaldi)


Từ nổi tiếng, rồi bị quên lãng, rồi lại nổi tiếng 

Tác phẩm Bốn Mùa của Vivaldi đã trở thành một trong những nhạc khúc cổ điển phổ thông nhất thế giới, nhưng sự nổi tiếng này thực ra chỉ gần đây mới có được. Khi Vivaldi qua đời trong túng quẫn năm 1741, ông đã dần dần bị người đời thời ấy cho vào quên lãng - ông là nạn nhân của sự thay đổi đột ngột trong cảm quan hưởng thụ của quần chúng. Ông được chôn cất trong khu dành cho người nghèo khó trong một nghĩa trang nhỏ ở thành phố Vienna, và cũng một khoảng thời gian dài chẳng ai biết ông đã được chôn cất ở đó, mà cũng chẳng ai thèm để ý đến số phận của ông. Suốt gần hết sự nghiệp chơi vĩ cầm và soạn nhạc của ông, ông rất thành công, phổ thông trong dân chúng, và có ảnh hưởng trong giới chơi nhạc. Cho dù ông soạn khoảng 500 concertos và 90 operas, suốt gần hai trăm năm sau khi ông qua đời, chỉ có một vài sử gia và người nghiên cứu nhạc biết đến tên ông mà thôi.

(Trang 6)

Thế kỷ hai mươi vừa qua đã dấy lại phong trào nghe nhạc Baroque, kể cả phần nào thích thú tìm hiểu kho tác phẩm của Vivaldi, nhưng cho đến khi công ty thâu dĩa Cetra ở Ý tung ra bộ đĩa "Bốn Mùa" năm 1950, thì tên tuổi của Vivaldi mới thực sự được phóng thẳng vào trí tưởng tượng của quần chúng.

Nếu đem so sánh sự thành công tột bực của tổ khúc Bốn Mùa, giới thưởng ngoạn sẽ rất ngạc nhiên về sự lờ mờ trong các chi tiết sử học về sự ra đời của chúng. Điều mọi người biết chắc chắn là Bốn Mùa được xuất bản năm 1725 (ba năm sau bộ Một của tác phẩm Well-Tempered Clavier của J.S. Bach) như là 4 concertos đầu của 12 tác phẩm dưới tựa đề "Sự tranh tài giữa Hòa Âm và Ý tưởng (Invention)." (Trong chương hai của quyển sách này, ông Kapilow nói rõ hơn thế nào là invention, nó như là một motif, bước thứ nhất trong phương pháp viết nhạc của Bach - hoctro) Tuy nhiên, lời đề tặng tới Count Wencelas Morzin với lời xin lỗi là đã đề tặng những tác phẩm mà ông "đã biết rồi" cho thấy tác phẩm đã được soạn ra trước năm 1725. Do vậy, tác phẩm này được viết khi nào, tại sao nó ra đời, và để tặng ai vẫn còn là ẩn số.

Bốn Mùa là một trong các tác phẩm được chú thích nhiều nhất, Vivaldi bỏ nhiều công sức để làm rõ nghĩa của từng đoạn nhạc. Tác phẩm được xuất bản với những vần thơ đầy tính cách mô tả (descriptive sonnets) ngay trước từng concerto, từng dòng thơ đều được đánh dấu bằng chữ cái, để sau đó chữ cái này đặt đúng chỗ thích hợp trên đoạn nhạc, do đó rất dễ hiểu là đoạn nhạc nào dùng minh họa cho dòng thơ nào. Vậy mà chúng ta cũng không có bằng chứng tin cậy là ai đã viết những câu sonnets này (các nhà nhạc học đều cho rằng chính Vivaldi đã viết xuống) cũng như những câu thơ được viết trước hay sau khi tác phẩm ra đời.

Một trong những nguyên nhân chính mà Vivaldi không chìm vào quên lãng vì những nhà nhạc học chuyên nghiên cứu về J.S. Bach liên tục bắt gặp những trang nhạc Bach chuyển thể (transcribed) từ những concertos của Vivaldi. Toàn bộ phương cách mà Bach dùng để sáng tác concerto sau này đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ Vivaldi, theo đó Bach đã viết lại từ một số concertos của Vivaldi thành 6 concertos cho harpsichord, 3 cái cho organ, một cho bốn cây harpsichords và dàn nhạc đàn dây. John Forkel, sử gia đầu tiên về Bach, viết rằng khi Bach chuyển thể những concertos của Vivaldi, ông đã không chỉ đơn thuần là muốn học cách sáng tác concertos, nhưng những bản chuyển thể này thật sự chỉ là "một phương tiện nhằm mục đích học cách suy nghĩ có thuần tính âm nhạc." (learning how to think musically) 


Vậy thì Bach đã học được gì từ Vivaldi? Chúng ta hãy dùng chương đầu - mà có lẽ cũng là chương nổi tiếng nhất mà Vivaldi đã từng viết ra - trong concerto Mùa Xuân của tác phẩm Bốn Mùa như là một cánh cửa sổ để ghé vào xem luồng suy nghĩ âm nhạc của Vivaldi.

Một đối chọi với Số Đông

Concerto này được chào đời như là một thể loại soạn nhạc hòa tấu ở hai thập niên cuối của thế kỷ mười bảy, sau năm 1700 thì thể loại này trở thành thể loại độc tôn của nhạc Baroque.

(trang 7)

Căn bản là có hai loại concerto kiểu Baroque. Một là concerto grosso, do vài người trình tấu với ban nhạc; hai là solo concerto, chỉ có một người trình tấu với ban nhạc phụ họa. Cả hai cách đều nhằm mục đích phô diễn sự tương phản giữa hai khối âm sắc (sonority): giữa một hay vài ba nhạc sĩ độc tấu với cả dàn hòa tấu đồ sộ. Một đối chọi với Số Đông. Sự tương phản giữa hai khối lượng âm thanh mất cân đối này - căn bản của loại nhạc concerto -  không chỉ đơn thuần là tương phản âm thanh lớn nhỏ, mà cũng là tương phản trong cách biểu lộ cảm xúc. Đi tìm một phương cách để có thể diễn đạt những tương phản của âm thanh và cảm xúc là một thử thách tiên quyết nhất để viết một concerto, và phương cách mà Vivaldi đã sử dụng dần dần trở thành cách thông dụng nhất của thời Baroque.

Puccini có nói rằng mở đầu là yếu tố quyết định cho sự thành công của nhạc phẩm (beginnings are everything), và đó chính là một trong những yếu tố làm nên sự thành công tột bực của Vivaldi. Cũng hệt như cá tính căn bản của một bài nhạc kịch được thiết lập bởi ý tưởng ở đầu bài (như trong bài "Over the rainbow" hay "I've got Rhythm"), cá tính căn bản của một chương trong một bản concerto của Vivaldi được thiết lập qua phần hòa tấu ở phần đầu giới thiệu bài, có tên gọi là ritornello. Mở bài này không chỉ mau chóng tạo ra thế giới biểu cảm của bản concerto, nó còn cho ta chất liệu căn bản chính của chương nhạc: những chất liệu mà sau đó sẽ lặp đi lặp lại, ở dạng nguyên thủy hay được biến đổi đôi chút, như một dạng điệp khúc để người nghe biết mình đang ở đâu. Vì đoạn ritornello mở đầu chương "Mùa Xuân" là một thí dụ tiêu biểu cho lối viết đã làm Vivaldi nổi tiếng, hãy mổ xẻ đoạn đó ra xem tại sao nó lại thành công như vậy.

Hình ảnh lấy từ: http://robkapilow.com/books.shtml 

Chương Một -  Antonio Vivaldi:
http://media.wiley.com/product_data/excerpt/29/04705509/0470550929-121.pdf

Xem và nghe nhạc cùng lúc: http://videoblast.wileypub.com/MEDIADEV/550922_Kapilow_What_makes_it_great/Interface.html




"Mùa Xuân Tới Rồi!"

Trước khi nói đến những tiểu tiết của phần âm nhạc, những số liệu nho nhỏ về nhạc phẩm cũng thật thú vị. Đoạn ritornello mở đầu dài 50 nhịp. Buốn mươi bốn trong số đó dùng chung hợp âm Mi Trưởng. Nếu tính chung với phần solo theo sau 102 trong số 108 nhịp của bài dùng Mi Trưởng! Trước khi Philip Glass và những nghệ sĩ thuộc trường phái giản thiểu xuất hiện trên vòm trời âm nhạc, chưa có khúc nhạc nào được mở đầu với phần hòa âm sơ đẳng như vậy.

Thật ra có hai ý căn bản trong phần mở đầu ritornello này , nhưng bề ngoài đơn giản của chúng đã làm thành những chi tiết nhỏ có ảnh hưởng sâu đậm hơn, làm người nghe dễ hiểu và dễ cảm nhận hơn. Vài chi tiết nhỏ này nằm ở phần tiết tấu. Để hiểu thấu đáo, tôi viết xuống một đoạn mở đầu khác, trong đó tôi giữ những nốt nhạc căn bản, nhưng loại vỏ đi tiết tấu thú vị của Vivaldi (Xem thí dụ 2A)

Nếu bạn vỗ tay theo nhịp trong thí dụ tôi viết: 5 nốt ngắn và một nốt dài hai lần (ssssl,sssssl), bạn sẽ thấy ngay nhịp điệu sao mà tẻ nhạt đến vậy.



Bây giờ hãy thử vỗ nhanh 2 nốt móc đôi theo bản của Vivaldi (ssss+al) để thấy một nguyên lý căn bản mà tôi sẽ nói tiếp theo đây.


Hãy bàn đến tinh yếu thứ nhứt. Từ thời Vivaldi đến nhạc đương đại, sự lặp lại (repetition) luôn luôn là điều căn bản nhất để có thể hiểu, cảm nhận một bài hát. Trong âm nhạc cũng như trong đời sống thường nhật, sự lặp lại là một trong những điểm chính làm ta có thể hiểu và nhớ sự vật. Sự lặp lại là tinh yếu của phần mở đầu của bản "Mùa Xuân". Mọi ý tưởng trong phần ritornello đều dựa trên sự tự lặp lại cũng như lặp lại nội tại - sự lặp lại bên trong của mỗi câu, cũng như sự lặp lại của toàn câu nhạc nữa. Nhửng sự lặp lại này cũng rất cầu kỳ. Ý tưởng ở câu mở đầu thì được bắt đầu bằng một cú nhảy hướng lên (leap up) từ Mi tới Sol thăng.


Sau đó, nếu câu được nhắc lại hoàn toàn thì sẽ phải giống như sau:



Tuy nhiên, Vivaldi đã thế cú nhảy đó bằng ba-nốt-đi-xuống: Si-La-Sol thăng.




Rồi sau đó ba nốt này trở thành ba nốt đầu tiên của câu cuối, là câu đóng mạch suy nghĩ.

Forkel đã viết: cái cảm giác tất yếu, không thể tránh khỏi (the feeling of inevitability) mà ta cảm nhận được trong nhạc của Bach bắt nguồn ở chỗ mỗi chuyển đoạn đều bắt buộc phải có một liên hệ tới ý tưởng đi trước, và phải cho thấy là nó là hệ quả cần thiết của ý tưởng đi trước ấy.

Dùng một phần của một ý tưởng đi trước (3 nốt trong thí dụ 3C) để tạo ra âm nhạc theo sau (thí dụ 3D) là một kỹ thuật mà Bach đã lãnh hội được từ những đoạn nhạc như thế này của Vivaldi.

Vivaldi dùng hết mọi phương tiện ông có trong tay để làm đẹp đoạn kết của câu mở đầu.


Giai điệu trong hai trường canh đầu được chơi bởi 2 violin chính, trong khi hai violin thứ yếu thì rõ ràng làm nhiệu vụ đi bè. Tuy nhiên, ở trường canh thứ ba, hai violin phụ đã hòa theo với hai violin chính với các nốt rất gần các nốt chính, như thể câu nhạc solo đã trở thành một câu hát đôi (duet) để đóng câu nhạc lại. Cùng lúc đó, phần bass, mà trong hai trường canh trước chỉ chơi có một nốt Mi, đã tăng tốc độ và đổi nốt cũng như hợp âm nhanh để kết thúc câu nhạc.

Tóm lại, tất cả những chi tiết nhỏ nhặt tuyệt diệu này - những biến thể của sự lặp lại trong giai điệu, hòa âm tuyệt đẹp của hai cây violin phụ, tự tăng tốc của phần bass, những thay đổi về nốt nhạc và hòa âm - làm chúng ta có thể cảm nhận được ngay dù chỉ mới nghe lần đầu. Có lẽ quan trọng nhất là toàn bộ câu mở này là một mô tả toàn hảo nhất của Vivaldi - một bậc thầy trong lối vẽ phác thảo - về cái cốt lõi nhất của câu thơ "Mùa Xuân đã tới rồi đó!"

Như tôi có nhắc tới ở trên, sự lặp lại là một trong các thành tố căn bản trong lối soạn nhạc của Vivaldi. Chúng ta đã tìm hiểu qua về cách ông lặp lại ra sao trong câu nhạc mở đầu. Sau khi cho ta nghe ba trường canh đầu, Vivaldi cho ta nghe lại toàn bộ lần thứ hai (trường canh 4 đến 6) nhưng với phong cách trình tấu êm dịu hơn, như là một kinh điển cùa lối tạo âm vang (echo) của nhạc thời Baroque. Một lần nữa, loại echo này là một phong thái làm người nghe có thể dễ dàng cảm nhận. Chúng ta được nghe lại một lần thứ hai những tiểu tiết thật tuyệt diệu của câu nhạc, cùng lúc thưởng thức những âm sắc và cảm giác về câu nhạc khi nó được chơi một cách êm dịu hơn. Tạo một dáng dấp bên ngoài của âm nhạc, do vậy, góp phần chính tạo nên sự thành công của bản nhạc.

(còn tiếp ...)

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2011

Thắm thoát 10 năm! 9.11.2001 - 9.11.2011

Bạn,

Vậy mà mười năm đã trôi qua kể từ biến cố lịch sử 9.11.2001 xảy ra, tôi còn nhớ rõ xem tivi ở nhà cảnh tượng hai tòa nhà Twin Towers ở New York bốc khói, đưa cháu bé 2 tuổi đến nhà bà giữ trẻ xong, thì nghe tin radio cấm toàn bộ máy bay trên đất Mỹ cất cánh. Khi đến sở thì một tòa nhà đã sụp đổ :-(((((

Mười năm sau, Bin Laden đã đền tội. Ở chỗ Twin Towers, một tòa nhà khác đang được xây, với tên là Freedom Tower, sẽ cao 1776 feet, tượng trưng cho năm 1776 là năm nước Mỹ Tuyên cáo Độc Lập.



http://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/september-11-attacks/8737101/September-11-Freedom-Tower-continues-to-rise-and-alter-New-Yorks-skyline.html

Tòa nhà này sẽ cao nhất Mỹ Châu (western hemisphere), đứng trên nóc nhà có thể thấy đường cong quả đất!!!

Thắm thoát 10 năm!!! cháu bé bế trên tay ngày nào đã thành một thiếu nữ 12 tuổi, bắt đầu học lớp 7 (Intermediate School), ngày khai trường hôm qua. Cháu ghi danh và được học một lớp "Orchestra Band", chắc sẽ rất vui vì chơi nhạc chung với các bạn cùng trang lứa, trước giờ cháu chỉ lủi thủi học piano một mình.

***

Sáu tuần vừa qua tôi bận quá xá trời, hiện cũng còn đang bận, nhưng vui. Chi nhánh hãng tôi cho 10 người khác và tôi 2 tuần để đi học ngay trong sở, người từ chi nhánh khác của sở tới dạy software mới. Thành ra 2 tuần chỉ có ăn và học, nên học được nhiều thứ mới. Tôi cũng có thời gian tự học chuyên sâu về VB.NET để viết ứng dụng cho software mới này. Sau khi học xong software, thì mỗi nhân viên được dùng 5 tiếng/tuần để dợt lại các thao tác cho khỏi quên, trong khi chờ đợi một project sẽ dùng software mới này. có thể đi làm overtime (OT) thứ Bảy để "dợt"!!! Chơi mà cũng được trả OT, kể cũng zui. Một chi nhánh khác của hãng lại cần tôi chế thêm một tí vào cái software tôi viết mà họ đang dùng, tôi ước tính 60 giờ, họ trả lời OK ngay! Tôi nói tao bận lắm à nha, phải charge OT, nó cũng OK luôn. Không lẽ tôi xách dép mặc tà lỏn vô làm Chủ Nhật luôn????

Mắc cười nhứt là tôi với tên này bút đàm bằng Lotus Notes Sametime, nó không rành tiếng Anh, tôi không biết tiếng Spanish. Hắn viết câu nào cũng phải vô Google Translation trước rồi mới cut-and-paste trả lời cho tôi !!!! Mỗi lần hắn đòi gắn thêm chút xíu vào software, là tôi lại khổ sở "bút đàm" với hắn, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, chả hiểu hắn muốn gắn cái gì. Có khi gần 2 tiếng mới hiểu nó muốn gắn làm sao, nếu hắn biết tiếng Anh chỉ cần coi qua email 1 phút là biết ngay rồi ....

Vài dòng đến các bạn, không thôi thì lâu quá không blog lại quên mất một thói quen viết tiếng Việt liên tục trong hai năm. Ở sở cũng gõ gõ, nhưng đa số là tiếng Anh, còn tiếng Việt thì mỗi ngày thỉnh thoảng email "tám" với bà xã tin tức trong ngày, vài dòng thôi để còn có cái cớ viết chữ "Love," ở cuối email. Mà thiệt ra toàn bả email trước không hà, chứ tôi bận lắm tới trưa không biết còn nhớ tới em để mà email hỏi thăm :-)

Chúc bạn một cuối tuần vui vẻ!
Girls Generation - Korean