Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2009

e-book

Chào bạn,

Tính viết một bài nhỏ tiếp, viết hoài hủy thành ra một bài dài 60 trang. Tôi làm 1 e-book cộng với mấy bài viết cũ. Mời bạn tới đây download.

http://phamduyproject.googlepages.com/index.htm

Thân ái,

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2009

Phạm Quỳnh

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Độc giả Việt Nam ở hải ngoại trong vài năm gầm đây, đã được đọc mấy tác phẩm của nhà văn Phạm Quỳnh, đó là các cuốn:

- Giải Oan Lập Một Đàn Tràng

- Phạm Quỳnh Tuyển Tập Và Di Cảo

- Phạm Quỳnh Hành Trình, Nhật Ký

Sách do các nhà Tâm Nguyện và An Tiêm xuất bản.

Như mọi người đều biết, vị vua cuối cùng của chúng ta là Bảo Đại.

Ông Phạm Quỳnh là Lại Bộ Thượng Thư, chức vụ tương đương với Thủ Tướng Chính Phủ hiện nay, trong triều đại cuối cùng ấy.

Ông vừa là nhà văn, nhà báo, nhà văn hóa, vừa là chính trị gia, giữ chức vụ quan yếu nhất trong các Bộ, bên cạnh Hoàng Đế.

Hiển nhiên những gì ông viết ra, để lại, hết sức quan trọng đối với chúng ta, vì nó liên quan tới một giai đoạn lịch sử còn ảnh hưởng tới cả đất nước hiện tại.

Giải Oan Lập Một Đàn Tràng là chữ lấy trong truyện Kiều của Nguyễn Du [Giải oan lập một đàn tràng ven sông].

Ông Phạm Quỳnh cũng là người đã viết ra câu:

Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn.
Tiếng ta còn thì nước ta còn.

Dùng mấy chữ của Nguyễn Du để đặt tên cho tác phẩm của mình, có lẽ ông Phạm Quỳnh cũng hé mở cho mọi người thấy rằng, lịch sử cận đại của chúng ta có nhiều nỗi oan khiên chăng?

Hãy lấy đoản văn Một Ngày Một Đêm của ông làm thí dụ.

Cái ngày ông Phạm Quỳnh nói đến trong truyện của ông là ngày 9 và cái đêm đó là đêm 10 tháng Ba năm 1945.

Đó cũng là ngày và đêm Nhật đảo chính Pháp trên bán đảo Đông Dương.

Đọc Một Ngày Một Đêm chúng ta biết được, về phương diện lịch sử, vào thời điểm trọng đại ấy, Hoàng Đế và Triều Đình ta đã làm những gì?

Ông Phạm Quỳnh viết:

“Bấy giờ vào khoảng 9 giờ tối. Dùng cơm xong, tôi đang ngồi trong tư thất Bộ Lại, nói chuyện với con trai thứ tôi là Phạm Bích. Bấy giờ nghe tiếng súng nổ lung tung. Ra sân thì trông thấy đèn chiếu lấp loáng ở bên kia sông và tiếng nổ là tiếng súng liên thanh như tiếng pháo, khi ở phía trên, khi ở phía dưới.


Đương phân vân thì thấy quan Đề Đốc Hộ Thành Phan Gia Trung chạy vào Bộ. Ông nói: ‘Có biến to. Nghe đâu lính khố đỏ phản lại Tây, đương đánh nhau dữ. Xin cho đóng các cửa thành’. Tôi cũng hối ông truyền cho lính đóng chặt các cửa thành, nội bất xuất ngoại bất nhập.


Khi bấy giờ đứng ở thềm Bộ Lại, Ông Đề với tôi cùng sực nhớ Hoàng Đế và Hoàng Hậu ngự ra Quảng Trị đã mấy bữa nay, có lẽ chiều nay hay sáng mai về, nhưng chưa biết hiện giờ đã hồi loan chưa. Vì những khi các ngài ngự vi hành như thế này, thì chỉ lính canh trong Đại Nội và viên Võ Hộ Giá Tây mới biết giờ đi, giờ về mà thôi. Tôi nói với ông Đề: ‘Thôi quan lớn cứ đốc suất việc cấm phòng trong thành cho cẩn mật. Để tôi vô Nội, nếu Ngài đã hồi loan thì tôi chầu Ngài, nếu chưa thì tôi sẽ đi tìm Quan Ba Bon để hỏi’. Ông Đề cũng nói: ‘Phải đấy cụ nên vô Nội để chầu các Ngài là phải’. Bấy giờ, trời tối đen và hơi mưa phùn, ông liền nói: ‘Tôi sẵn cái xe tay kéo tôi đây, cụ lên xe mà đi cho mau’.

Như thế, theo lời kể của ông Phạm Quỳnh, chúng ta được biết, vào đêm xẩy ra vụ Nhật đảo chính Tây, Vua và Hoàng Hậu không có ở trong Đại Nội. Các quan thì cũng gần như chẳng biết chuyện gì đang xẩy ra, chỉ nghe nói ‘lính khố đỏ phản lại Tây’.

Sau đó người Nhật đã cho ông Phạm Quỳnh biết, qua một người thông ngôn:

“Hiện quân Nhật đang giải võ quân Pháp vì có việc lôi thôi giữa quân Nhật và quan Toàn Quyền Decoux. Nhưng không việc gì đến người Việt Nam ta”.

Giải võ xong người Pháp, người Nhật, chính xác là hai quan lãnh sự Watamata và Ishida đã đến Nội ‘xin chầu Hoàng Đế để tâu việc cần’, đúng như những chữ ông Phạm Quỳnh dùng.

Ông cho biết thêm:

“Buổi tiếp kiến này là một giai đoạn quan hệ trong lịch sử nước ta, vì là buổi đề cập tới vấn đề độc lập nước Việt Nam”.

Tình hình nước ta sau đó diễn ra thế nào cho đến nay, mọi người đã biết.

Có vài điều, chỉ khi đọc sách của ông nhiều người trong chúng ta mới biết, đó là cách xưng hô, các từ ngữ được dùng trong triều đình.

Chẳng hạn như xe của Vua gọi là “xe ngự”, xin được gặp Vua để trình việc gọi là “xin chầu” để “tâu”. Vua làm gì đó, chẳng hạn ra vào, gọi là “ngự”. Vua nói gọi là “ban”. Vua tha lỗi gọi là “ban xá”. Vua gọi các quan vào chầu gọi là “triệu”. Các quan gọi nhau dùng từ “quan lớn” hoặc thân mật thì gọi là “cụ”. Quân lính nói với các quan gọi là “bẩm”. Nghĩa là cũng gần giống như trong các truyện Tàu chúng ta thường đọc.

Cho đến năm 1945 trong triều đình hình như vẫn chưa có điện thoại, nên khi muốn thông tin gì đó, người ta vẫn phải tìm cách đi lại gặp nhau.

Vua đã di chuyển bằng xe hơi.

Nhưng các quan vẫn còn dùng “xe tay”, nghĩa là xe do người kéo.

Tuy Giải Oan Lập Một Đàn Tràng của Phạm Quỳnh đã được viết cách đây hơn nửa thế kỷ, nhưng cho đến nay vẫn còn có thể coi là mẫu mực cho những ai muốn học viết tiếng Việt một cách giản dị, mạch lạc, trong sáng.

Phạm Quỳnh cũng là người chủ trương tạp chí Nam Phong, tạp chí đã đóng góp rất nhiều vào việc khai hóa dân trí, nhất là bản lãnh trí thức các lớp thanh niên giữa giao thời Hán và Tây học.

Ông Phạm Quỳnh đã bị Cộng Sản giết chết khi họ cướp được chính quyền từ tay người Nhật.

Dư luận cho rằng, không biết đến bao giờ đất nước mới có được một bậc trí giả tầm cỡ như vậy.

Đọc sách đôi khi chúng ta không khỏi có lúc thắc mắc tự hỏi, tại sao, chúng ta không thiếu những nhà văn, nhà thơ, các học giả thông kim bác cổ, nhưng chúng ta lại không có những nhà tư tưởng, những triết gia?

Và đó có phải là lý do giải thích vì sao, văn học chúng ta không thực sự đạt tới những đỉnh cao?

Nguyên cớ của sự bất như sở nguyện ấy, có phải chính vì cái học của chúng ta, có điều gì đó, cần xét lại chăng?

Cái học nói tới ở đây là cái học của người xưa, ông Phạm Quỳnh, nhìn lại, suy ngẫm lại.

Trong một lá thư gửi bạn, ông Phạm Quỳnh viết:

“Xét ra cái tôn chỉ của đạo Nho ta là ở sự thực hành. Người đi học hễ đã biết suy nghĩ, tất có cái chí muốn thi thố ngay, vì học là cốt cho biết những lẽ khôn ngoan của các thánh hiền đời trước đã phát minh ra để trước là sửa mình, sau là tề nhà, sau nữa là trị nước; chứ học mà không đem ra ứng dụng được ở đời thời cái học ấy các cụ cho là không có giá trị gì.


Cứ lý tưởng mà xét thời cái chí ấy cũng không khỏi hẹp hòi một chút vì rằng, sự tư tưởng với sự hành động không tất nhiên là phải tùy thuộc lẫn nhau, nếu chỉ biết tư tưởng để mà hành động, thời tư tưởng ấy sẽ bị hành động hạn chế mà không bao giờ tiến lên được: coi như nước ta văn hiến đã từ bao giờ, tuy những bậc hiền nhân quân tử chẳng thiếu gì mà trước sau gọi được là bậc đại triết học có người nào? Chỉ vì cái quan niệm về sự học vấn tư tưởng của các cụ ta ngày xưa vụ thực quá, học để mà làm, chứ không học để cho biết, cho nên sự học không ra ngoài phạm vi việc làm, không siêu việt được lên cõi lý tưởng cao thượng thuần túy, như ở các nước văn minh khác: đó cũng là một khuyết điểm trong văn hóa cũ của chúng ta”.

Luận về cái học như vậy, nhưng ông Phạm Quỳnh cũng công nhận, về thực tế, cái chí của các cụ như thế cũng là hay lắm: nước ta sở dĩ sinh tồn được đến nay, từng trải biết bao nhiêu nông nỗi gian nan mà không đến lụn bại, cũng là nhờ cái chí đó của mấy mươi đời nho học.

Bàn về cái chí ấy của các cụ, ông Phạm Quỳnh viết:

“Tôi thường nghĩ đến cái chí ở việc đời của các các cụ ta ngày xưa mà lấy làm sợ: cái chí của các cụ thật là bền, là mạnh vô cùng, càng không siêu việt lắm lại càng cương nghị nhiều. Trừ những người bẩm tính đa sầu, muốn ẩn nhẫn cho an ủi chút lòng phiền muộn xa xôi, còn ai đã chuyên tâm về sự học hành cũng là có bụng về thời thế, cũng là mong có ngày đem tài kinh luân ra thi thố với đời, giúp cho dân, phù cho nước. Dẫu có muốn hiển đạt cho mình cũng là để cho tới địa vị có thể suy khứ được thời thế, biến hóa được nhân tâm, mà ra công phù trì cho thế đạo, chỉnh đốn lấy cương thường.


Mục đích sự học của người xưa rõ ràng như vậy, nên khổ công, dẫu bạc đầu chưa nghỉ và nếu chẳng toại chí thì lấy làm di hận suốt đời. Có yếm thế cũng có nghĩa là cùng không thể sao được nữa mới phải chịu để mình vào chốn bàng quan, chứ không lấy sự yếm thế làm chủ nghĩa một đời”.

Ông Phạm cho rằng, hình thức của nho học đã lỗi thời bỏ đi không lấy gì làm tiếc. Nhưng tinh thần kia phải cố mà cứu vớt, vì cả xã hội luân lý nước ta nương tựa vào đấy. Ông Phạm Quỳnh viết tiếp:

“Tinh thần nho học chính là ở cái chí về thế đạo cương thường, như ta nói ngày nay là nghĩa vụ về quốc gia, xã hội vậy. Nghĩa vụ ấy, phàm làm dân trong một nước ai cũng phải có một phần, nhưng nhất là kẻ thượng lưu học thức, lại càng phải nên thận trọng lắm. Ngày nay phàm người biết trông biết nghĩ, cũng từng nhận rằng buổi này là buổi giao thời, về chính trị, xã hội, luân lý, chưa đâu là thành rường mối cả, lòng người lơ láo không biết lấy gì làm phương châm, thành ra một cái xã hội sốc nổi, tạm bợ, người nào chỉ biết người nấy, mang nhiên không hiểu gì đến việc nước, việc đời, mà trong cách làm ăn cư xử có lắm điều thương phong hóa, bại cương thường mà không biết”.

Những điều ông Phạm viết ra đó, cách nay đã hơn nửa thế kỷ, có bao nhiêu điều còn đúng với cuộc sống chúng ta đang sống đây?

“Lấy cái chí giúp đời ngày xưa mà thi hành vào thời thế bây giờ, dùng phương pháp ngày nay mà đạt cái chí nguyện trăm năm của các cụ, đem học vấn tư tưởng giúp cho xã hội quốc gia, đó là phận sự của bọn mình.


Ngày xưa các cụ học là để sửa mình, tề nhà, trị nước, ngày nay chúng ta học cũng phải lấy ba điều đó làm mục đích. Tuy cái học xưa với cái học nay không giống nhau, mà tôn chỉ của sự học cũng là một, duy phương pháp để thực hành tôn chỉ ấy phải tùy thời thay đổi thôi.


Vậy nay ta phải đem hết trí tuệ mà nghiên cứu những vấn đề hiện thời rồi mới tìm phương giải quyết cho thỏa đáng. Ta phải bình tĩnh mà quan sát, vấn đề nào cũng phải xét cho hết các phương diện, tìm cho đến ngành ngọn, cứu cho ra gốc nguồn, rồi mới bầy tỏ một cách rõ ràng sáng suốt cho quốc dân đều được biết: vấn đề đã bầy tỏ rõ ràng thời giải quyết không khó, chỉ sợ mập mờ chưa tỏ mới lo thi thố sai lầm vậy”.

Tóm lại ông Phạm Quỳnh phân định việc học nhắm hai mục đích rõ rệt: học để biết và học để làm. Chúng ta chưa có những nhà tư tưởng thuần túy, nên chưa có triết gia. Những lời ông luận về “học để hành” có thể coi là những lơì tâm huyết. Nó còn giúp được gì cho học giới ngày nay chăng, điều ấy còn tùy thuộc mỗi người vậy.




NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

Nguồn: Viet Tide
Girls Generation - Korean