Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2010

Hoàng Quốc Bảo, dòng nhạc như chiếc cầu tâm linh nối liền đời thường và nẻo đạo

Du Tử Lê
Nguồn: nguoivietonline


Cùng với sự rộ, nở của sinh hoạt văn chương, qua những diễn đàn văn học, hiện diện từ giữa thập niên 50, khởi đầu với những tạp chí như Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Bách Khoa, sinh hoạt âm nhạc miền Nam với hàng trăm trung tâm, nhà xuất bản, thu băng, đĩa, tất cả đem lại cho người nghe những dòng nhạc tiêu biểu của một Phạm Ðình Chương, Phạm Duy, Vũ Thành, Hoàng Trọng, Cung Tiến, Lê Trọng Nguyễn, Ðan Thọ, Nguyễn Hiền, Tuấn Khanh, Y Vân, Lâm Tuyền, Hoàng Thi Thơ, Anh Bằng, Nguyễn Văn Ðông, Trúc Phương,v.v... đó là cột mốc thứ nhất.


Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo

Ở cột mốc văn học thứ hai, song song với sự hiện diện của những tạp chí như Hiện Ðại, Văn Nghệ, Văn, Văn Học, Nghệ Thuật... xuất hiện những năm đầu thập niên, một số kéo dài tới giữa thập niên 70, sinh hoạt âm nhạc cụng mang tới người nghe, những đời nhạc tươi, mới khác. Ðó là sự lên đường, rồi định hình của những dòng nhạc mang tên Trịnh Công Sơn, Nguyễn Ánh 9, Trần Thiện Thanh, Anh Việt Thu, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Ðức Quang, Phạm Trọng Cầu, Ngô Minh Thu, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Trầm Tử Thiêng, Ngô Thụy Miên v.v...

Xuất hiện sau những Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên một vài năm, và, sau Trịnh Công Sơn khoảng sáu, bảy năm; nhưng nếu lấy con số 10 năm làm thước đo, đếm một thế hệ, thì Hoàng Quốc Bảo là người cuối cùng, lấy được chiếc vé lên chuyến tầu âm nhạc, chung với những tên tuổi vừa kể. Khi chuyến tầu âm nhạc đi khắp cùng đất nước kia, chỉ còn một vài ghế trống.

Tuy nhiên, nếu Trịnh Công Sơn rướn mình, giơ cao ngọn cờ kêu đòi chấm dứt chiến tranh; Vũ Thành An với những bài không tên viết cho một (hay những) cuộc tình tuyệt vọng, Từ Công Phụng với nỗ lực đi tìm vàng son, thuở trước... thì, Hoàng Quốc Bảo, tự những nhát cuốc vỡ đất sáng tác đầu tay, đã cho thấy khuynh hướng xới sâu cõi hư không. Ðời giả tạm.

Ngay với những tình khúc rực rỡ chia ly, nát nhàu thống khổ, ở đâu đó, giữa những hợp âm được nối kết bởi Hoàng Quốc Bảo, vẫn mang tới cho người nghe, cảm nhận muốn vươn, thoát khỏi những trói buộc hạn hẹp của kiếp người. Tham vọng xóa bỏ sự phân biệt hình/tướng. Ðem nhị nguyên đúng/sai, thành/bại, phải/trái... về nhất thể.





Chân dung Hoàng Quốc Bảo. (Tranh: Họa Sĩ Võ Ðình)

Bằng âm nhạc, tự những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, họ Hoàng đã thiết lập cho mình (hay cho người), những chiếc cầu tâm linh, bắc qua đôi bờ nhân gian và, lẽ đạo.

Dù không một chỉ dấu, chẳng một tận khai cố tình, bằng cõi tâm tĩnh, lặng, Hoàng Quốc Bảo, với cõi nhạc của mình, đã mặc nhiên mang đến người nghe, những hồi chuông lai tỉnh. Những thời kinh, những câu kệ nhắc gọi chúng sinh, hồi hướng bến giác.

Tính thiền hay lời gọi kêu chúng sinh rời bỏ bờ mê trong đời nhạc Hoàng Quốc Bảo, mỗi lúc, một thêm nồng nàn sở nguyện, bằng vào bản thân, qua những năm luân lạc, quê người, họ Hoàng càng thực chứng lẽ vô thường. Ðời hữu hạn.

Nơi cõi tạm, tôi nhớ cuối năm 1975, đầu năm 1976, Hoàng Quốc bảo, đưa thân mẫu từ tiểu bang Illinoise về quận hạt Orange County, ở miền Nam California.

Một buổi tối, nơi căn apartment ở thành phố Costa Mesa, trong căn phòng không đồ đạc, Hoàng Quốc Bảo ôm đàn, hát cho chúng tôi nghe một số nhạc cũ, mới của ông.

Trong số đó, có ca khúc nhan đề “Hồ Như”, với những câu như:

“Có lẽ ta về ai biết đâu - Trồng vàng hoa trên núi sương hào - có lẽ trăm rừng xanh trở lại - gọi đàn chim xa mãi về phương nào - có lẽ ta về như giấc mơ - làm dòng sông bôi xóa đôi bờ - có lẽ người hồi sinh trở lại - nhìn cuộc chơi quên bấy lâu nay.”

Khi nghe lần thứ hai câu “...làm dòng sông bôi xóa đôi bờ...” tôi rất muốn hỏi ông, “Hồ Như” là ca khúc được viết thời gian nào? Trước hay sau 30 tháng 4? Nhưng cuối cùng, tôi im lặng. Tôi im lặng vì trong một thoáng mơ hồ, người thanh niên ngồi bệt trên thảm, trước mặt tôi, người thanh niên lúc nào cũng như ngơ ngác, lạc lõng, dường không còn là Hoàng Quốc Bảo. Ông là một người khác. Với tôi, ông không “làm” (tôi nhấn mạnh) “dòng sông bôi xóa đôi bờ” mà ông chính “là” (tôi nhấn mạnh) dòng sông. Và, dòng sông ấy đã “bôi xóa đôi bờ.”





Thủ bút của Hoàng Quốc Bảo.

Tôi không hỏi “đôi bờ” trong ca khúc “Hồ Như” của Hoàng Quốc bảo là đôi bờ nào. Tôi không hỏi bởi tôi nghĩ, nếu hỏi, chưa chắc giải thích của ông và cảm nhận riêng của tôi, đã gặp gỡ nhau. Với tôi, đó là “đôi bờ” của biến cố kinh hoàng, điếng tê mới xẩy ra. Còn tưa máu. “Ðôi bờ” với tôi là trong/ngoài một tổ quốc. “Ðôi bờ” với tôi là hai miền tử/sinh mà, con người bị phanh thây, đứng giữa...

Ðó cũng là thời gian chúng tôi cùng làm việc ở hãng Rockwell International, chi nhánh Newport Beach, trên đường Jamboree. Một năm sau, ông cho tôi biết, đã xin nghỉ việc để nhận công việc mới là thảo chương viên, cho công ty nước ngoài ở thành phố Los Angeles. Từ đó, chúng tôi ít có dịp gặp nhau.

Nhưng, tôi vẫn dõi theo bước đi của người “là” “dòng sông bôi xóa đôi bờ”! Như dõi theo những mơ ước bất toàn của chính mình.

Và, thời gian cho tôi hiểu, những thực chứng, những sở nguyện khởi tự khá nhiều nghịch cũng như thuận duyên, đã mang lại cho Hoàng Quốc Bảo (hay cho chúng ta) nhiều số tác phẩm mới. Những tác phẩm càng lúc càng cho thấy tính “bôi xóa đôi bờ” nơi ông.

Mười ca khúc phổ từ thi kệ, thiền thi của của các thiền sư như Nhất Hạnh, Huyền Không, Tịnh Từ, trong đĩa nhạc mang tên “Hú Dài Một Tiếng Lạnh Về Hư Không,” Hoàng Quốc Bảo một lần nữa, thống thiết trải rộng tấm lòng yêu người, trái tim thương đời của mình, tới người nghe, như một lời cảm ơn những ơn phước (mà, ông đã nhận được từ cảnh đời. Cảnh đời, hiểu theo một nghĩa nào, là phản quang hay, ảo hóa của ngục A Tỳ.)

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho một ký giả của đài Little Saigon Radio ở miền Nam California, từ nhiều năm trước, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo cho biết, kể từ đĩa nhạc mang tên “Tịnh Tâm Khúc” cách đây nhiều chục năm, thì “Hú Dài Một Tiếng Lạnh Về Hư Không” là đĩa nhạc thứ hai của ông. Phần lớn những ca khúc trong đĩa nhạc vừa kể, được họ Hoàng sáng tác đầu thập niên 80. Nhạc sĩ Hồ Ðăng Tín đã bỏ ra 5 năm, cho phần soạn hòa âm.

“Rồi nhiều thiện duyên đến, nhất là với tâm ý hân hoan và, thôi thúc trong việc kỷ niệm mùa Ðản Sinh đầu thiên niên kỷ, chúng tôi nguyện đem lòng thực hiện,” tác giả “Hú Dài Một Tiếng Lạnh Về Hư Không” tâm sự.

Khi được hỏi quan điểm riêng về những ca khúc và những băng nhạc Phật Giáo ra đời trong những năm tháng gần đây, Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo nói:

“Tôi là người Cư sĩ Phật tử, lại trong giới sáng tác âm nhạc, thấy việc làm nào cũng có mặt tốt của nó. Nhạc mình như một đóa hoa nhỏ, trong vườn hoa nghệ thuật đầy mầu sắc. Có người thưởng ngoạn chỉ vì màu sắc sặc sỡ, lại có kẻ trang trọng với dị thảo, kỳ hương. Trong công tác nghệ thuật, tôi chỉ nguyện chính mình trân trọng hết sức với nghệ phẩm của mình. Không để bị chi phối vì bất cứ mục đích gì khi sáng tác, quyền lợi hay danh vị. Nhất là khi thực hiện, lấy nghệ thuật làm mục đích chính. Thứ đến mới nhượng bộ những điều kiện khác. Ðã làm hết sức mình rồi, kết quả ra sao, lúc ấy mới hoan hỉ chấp nhận...”

Câu trả lời của họ Hoàng, cho thấy quan điểm cũng như cung cách ứng xử của ông, không chỉ với nghệ thuật, mà còn với cả cuộc sống hàng ngày nữa.

Vẫn theo lời giới thiệu của ký giả phỏng vấn nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, thì họ Hoàng chính thức sáng tác ca khúc kể từ năm 1969, thời còn ở Việt Nam.

Ông từng là người chủ trương những chương trình âm nhạc cho các đài phát thanh ở Thủ đô Saigòn, trước tháng 4, 1975, như đài Tiếng Nói Tự Do, đài Phát Thanh Saigon, đài Tiếng Nói Quân Ðội, nhưng ông không hề lợi dụng vị trí của mình, để phổ cập tên tuổi ông.

Ðề cặp tới đĩa nhạc “Hú Dài Một Tiếng Lạnh Về Hư Không” của Hoàng Quốc Bảo, một nhà báo khác, trong một bài viết trên nhật báo Việt Báo, cho biết nhan đề ấy, vốn là một câu thơ của Không Lộ Thiền Sư đời nhà Lý. Ðó là câu: “Có khi lên thẳng non hề/hú dài một tiếng lạnh về hư không.”

Cũng trên nhật báo Việt Báo, số cuối năm 2005 loan tin nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo... xuất gia. Xuống tóc. Ði tu. Tôi chia sẻ với người viết bản tin, khi nhấn mạnh rằng, sự việc vừa kể, không làm nhiều người ngạc nhiên. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn ghi lại bản tin này, như một ghi chú quan trọng ở những năm cuối đời của họ Hoàng. Với cá nhân tôi, nó cũng là một hình thức “bôi xóa đôi bờ” mà thôi. Nguyên văn bản tin đó, như sau:

“Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo đã rời bỏ California để về xuất gia ở một Thiền Viện tại Việt Nam trong những ngày đầu tháng 12, 2005.” Ðược biết, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo đã tham dự lễ khánh thành Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên ở Tam Ðảo, tỉnh Vĩnh Phúc vào ngày 27 tháng 11, 2005 và rồi vài ngày sau đã trở về Thiền Viện Trúc Lâm ở Ðà Lạt và xuống tóc xuất gia với Thiền Sư Thích Thanh Từ trong những ngày đầu tháng 12, 2005.” Việc nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo xuống tóc đi tu không làm bao nhiêu người bất ngờ, vì nhạc sĩ đã nói ý nguyện này từ lâu, từ những ngày làm việc trong ngành Tin Học ở Sở Cấp Nước Los Angeles. “Mới vài năm trước, trong chuyến Hòa Thượng Thanh Từ lần cuối viếng thăm California, nhạc sĩ đã có tên trong danh sách xuống tóc đi tu trong buổi lễ ở Thiền Viện Ðại Ðăng, Nam Calif., nhưng khi xướng tên trên danh sách, tới khi đọc tên Hoàng Quốc Bảo, thì nhạc sĩ không có mặt - trước đó, nhạc sĩ đã lẳng lặng bước ra ngoài và chờ dịp khác.” Và lần này là một cơ duyên lớn. Nhân dịp lễ khánh thành Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên ở Tam Ðảo, một thiền viện tuy là mới tân trang cho Trúc Lâm Thiền Phái của HT Thanh Từ, nhưng theo sử thì chính nơi đây là dấu tích Phật Giáo xưa cổ nhất, chính nơi đây là chỗ các nhà sư do Vua Asoka của Ấn Ðộ cổ thời đặt chân vào Việt Nam làm trú xứ. Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên còn là một thắng cảnh lớn với núi rừng nguyên sơ, cao 300 mét trên mặt biển...





Hoàng Quốc Bảo sau khi ngày thế phát xuất gia, ảnh chụp 2007


“Sau khi dự lễ, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo đã về Trúc Lâm Thiền Viện ở Ðà Lạt, và xuất gia với HT Thanh Từ, vị Thiền Sư nổi tiếng nhất tại quê nhà và đang hoằng pháp Thiền Tông Trúc Lâm tại cả trong và ngoài nước.

“California tuy mất đi một nghệ sĩ tài hoa, nhưng Thiền Tông VN ở quê nhà lại đang có thêm một người gánh vác mới...”

Cách đây không lâu, nhân tang lễ một người thân trong gia tộc, tại một nhà quàn quận hạt Orange County, một số thân hữu đã được gặp lại tu sĩ Hoàng Quốc Bảo.

Ông không hát nữa. Dĩ nhiên. Có thể ông cũng không nữa “hồ như”...

Riêng tôi, gặp lại ông, tôi lại tự hỏi:

- Phải chăng, ông đã “là” “dòng sông bôi xóa đôi bờ” tự một xa xưa, tiền kiếp nào.

Du Tử Lê
(Tháng 3, 2010)

Thứ Ba, 23 tháng 3, 2010

Nhân xem bài báo về vụ "Tham nhũng Quảng Bình bị lộ"

Cách đây vài hôm, tôi đọc được bài báo này (tôi có đem về đăng lại ở phần cuối post này), và nhìn thấy cái hình cột bê tông rỗng không, chỉ có cốt sắt (rebar), và xi măng (concrete) trét sơ sài bên ngoài, tôi sợ quá. Sợ cho lòng tham vô đáy, vô lương tâm của lũ ròi bọ đục khoét tài sản của đất nước, bất chấp hậu quả.

Là một người với công việc hằng ngày là vẽ kỹ thuật về ngành sắt và xi măng để xây dựng và trùng tu các xí nghiệp, cũng như phụ giúp các kỹ sư già cũng như trẻ xem xét (checking) các bản vẽ trước khi chuẩn thi để xây dựng (approved for construction - AFC) tôi học hỏi được rất nhiều kiến thức cũng như kỷ luật của công việc. Muốn độ tải trọng càng cao, các thanh thép chính (dowels) phải có đường kính to hơn, và các cây sắt nhỏ hơn dùng để cột (ties) cũng phải nhiều hơn, khoảng cách giữa chúng ngắn hơn (thí dụ #4 @ 8" thay vì #4 @ 10"). Bê tông (concrete) có độ cứng cao phải nhờ tới sườn thép này (rebars), hai thứ kết hợp với nhau để làm thành bê tông cốt sắt. Chỉ có một cái như concrete không cũng hỏng, huống hồ gì chỉ có sắt không, thì làm sao các thanh rebar mỏng độ dày 25mm (1" diameter) có thể chịu đựng nổi sức nặng của một cái xe hơi khi bị đè lên?????? Bên Mỹ họ check kỹ lắm, đúc xong họ lấy mẫu và thử nghiệm ngay để xem độ cứng đã đạt tiêu chuẩn chưa, nếu chưa thì phải sửa. Bên Việt Nam chắc là không có khâu thử nghiệm này nên chả ai biết cả???

Ngay cả câu chú thích cũng không hoàn toàn chính xác "Cầu được đúc bằng xi măng với cót và tre. Sắt thép làm cốt đã bị các quan và nhà thầu chia nhau nuốt hết. (Hình: Thanh Niên)" Theo tôi thấy, xi măng bị ăn chặn, cốt sát có đó nhưng rời rạc, đúng là có dấu vết ăn cắp, ăn bớt sắt, lớp cót tre làm nền để "dán" xi măng lên cho nó dính, nếu không có lớp tre ấy thì xi măng chảy tuột vào trong hết, làm sao ăn chặn được??? Thật là một vụ ăn cắp có tổ chức, giữa ban ngày, nhiều người liên can.

Việc này mà xảy ra ở bên Mỹ thì có khối người bị ra tòa và bị tù, từ anh thợ đổ xi măng tới ông bộ trưởng, giám đốc công ty thầu. Chả biết ở VN thì sẽ ra sao. Làm cho người muốn về lại VN thăm quê hương như tôi lo sợ quá, chả biết hai vợ chồng và nhất là hai đứa con ham đi du lịch sẽ bị chết thảm thương không biết lúc nào, thà khỏi đi còn hơn, đi rồi ôm hận suốt đời.

Bên Mỹ chỉ có vụ Toyota làm "thắng/phanh" (brakes) bất cẩn đã khiến người tiêu thụ tẩy chay, làm hãng này trên đường sạt nghiệp. Không hiểu sao những vụ này ở Việt Nam xảy ra như vậy, mà theo báo thì những ký giả phanh phui lại bị đi tù ?!?

Unbelievable!!!!!


***

Tham nhũng Quảng Bình bị lộ

Thursday, March 18, 2010
Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=110029&z=2


QUẢNG BÌNH (TH) - Một cây cầu dài hơn 43 mét bị nứt, lộ ra tre, cót bên trong với chỉ một ít xi măng bê tông trét mỏng bên ngoài, mặc dù chi phí xây lên tới $1.5 tỷ đồng - theo tin báo Thanh Niên.

Báo Thanh Niên miêu tả cầu Khe Dầu ở xã Xuân Hóa, tỉnh Quảng Bình là “dài 43.2m, rộng 5m, được đầu tư xây dựng với tổng kinh phí gần 1.5 tỉ đồng, do Công ty TNHH xây dựng tổng hợp số 7 ở huyện Quảng Trạch thi công; đến tháng 8, 2008, công trình được bàn giao đưa vào sử dụng.” Vào tháng 8, 2008, con số 1.5 tỷ đồng tương đương khoảng 93,000 USD.




Cầu được đúc bằng xi măng với cót và tre. Sắt thép làm cốt
đã bị các quan và nhà thầu chia nhau nuốt hết. (Hình: Thanh Niên)


Tuy nhiên, “Thế nhưng hiện cầu đã xuống cấp nghiêm trọng, mố cầu phía Ðông bị sạt lở làm ảnh hưởng đến sự an toàn đi lại của người dân và đường dây điện 0.4 KV. Phía dưới của dầm cầu đã nứt toác, nhiều chỗ bê-tông bị bể lộ ra cả cốt thép. Ðặc biệt, lớp bê tông rất mỏng, rời rạc, không có sự kết dính, nhiều đoạn rỗng với độ sâu hơn 40 cm và phía trong toàn là tre và cót ép.”

Tỉnh Quảng Bình nổi tiếng hồi năm ngoái khi giáo dân họ đạo Tam Tòa, thành phố Ðồng Hới bị đàn áp. Vụ việc dẫn tới hàng chục cuộc biểu tình hồi tháng 7, 2009 tạo thành một phong trào chống đối với hàng trăm ngàn giáo dân khắp giáo phận Vinh.

Toa rập với nhau giữa “chủ đầu tư” và nhà thầu vô cùng phổ biến ở Việt Nam. Một nhà thầu dính vụ tham nhũng xây “cầu vượt” Văn Thánh ở Sài Gòn từng nhìn nhận sau các khoản “lại quả” của nhà thầu cho nhiều tầng nấc tham nhũng, tiền còn lại để xây dựng chỉ khoảng 40% của số tiền trúng thầu. Ðó là lý do cầu này lún sụt ngay từ khi chưa khánh thành mà không ai chịu trách nhiệm.

Công trình xây dựng gian dối bê tông cốt tre bị phát hiện ở Quảng Bình không phải là lần đầu tiên xảy ra ở Việt Nam.

Ngày 16 tháng 5, 2009, báo lao Ðộng nói, “Tại gói thầu xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư khu kinh tế cửa khẩu Thường Phước, huyện Hồng Ngự (Ðồng Tháp), nhân dân phát hiện ra bê tông cốt tre khi một tấm đan đậy nấp cống bị vỡ.”

Ngay sau đó, người dân còn phát hiện nhiều tấm đan khác cũng chỉ toàn “cốt tre,” loại vật liệu được cố tình đưa vào để thay thế thép. Công trình trên thuộc gói thầu số 2 khu tái định cư mở rộng của khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Thường Phước rộng 7.3 ha do doanh nghiệp tư nhân Chí Hồng (thị xã Hồng Ngự) trúng thầu thi công, hoàn thành đưa vào sử dụng được 10 tháng.

Qua khảo sát ban đầu, trong tổng số 56 vị trí đặt đan thì có 10 tấm được đổ bằng cốt tre, 35 tấm bằng cốt thép theo qui cách, 11 tấm còn lại bị mất cắp không xác định được. Chủ doanh nghiệp Chí Hồng đã đổ lỗi do công nhân thi công, còn doanh nghiệp không hay biết.”

Theo báo Tuổi Trẻ ngày 6 tháng 4, 2007, “Ngày 30 tháng 3, khi chiếc xe tải chở đội tuyên truyền thuộc Bộ Chỉ Huy Biên Phòng tỉnh Quảng Trị đi qua đoạn Cua Trầm (huyện Ðakrông, Quảng Trị) va quệt nhẹ vào một cọc tiêu bên đường làm cọc tiêu bị gãy và phát hiện phần cốt bên trong được làm bằng... thân tre. Ðoạn đường này dài khoảng 8km, đi qua xã Pa Nang (Ðakrông) được khánh thành từ năm 2005 nhưng đến nay vẫn chưa được nghiệm thu, trên đường vẫn còn rất nhiều cọc tiêu khác.”

Vụ “bê tông cốt tre” nổi tiếng nhất, có lẽ là các cọc tiêu bê tông cốt tre dựng trên quốc lộ 18 do đại gia PMU 18 có trách nhiệm “quản lý” và chủ đầu tư là Bộ Giao Thông Vận Tải.

Theo bản tin VietnamNet ngày 23 tháng 3, 2006, “Khi TGÐ PMU18 Bùi Tiến Dũng bị bắt, những dự án tai tiếng của PMU18 trước đó bị phanh phui, nhiều người dân ở địa bàn huyện Yên Phong (Bắc Ninh) mới nhớ lại chuyện mờ ám liên quan đến PMU18 có từ trước đó 2 năm. Ðó là chuyện '’cười ra nước mắt'’ ở Quốc lộ 18 (QL18) khi bị làm gian dối để ăn cắp một cách trắng trợn. Thật may, vụ việc '’lộ sáng'’ từ những đứa trẻ chăn trâu thiếu tiền, phải đập cọc tiêu lấy sắt bán... nhưng chỉ thấy cọc tre!”

Ðến nay, Bùi Tiến Dũng chỉ bị tù về tội cờ bạc chứ không phải về những gì liên quan đến chuyện bê tông cốt tre. Thứ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải Nguyễn Việt Tiến bị tạm giam rồi được xóa tội. Còn hai phóng viên viết bài trên hai báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ tố cáo tham nhũng ở Bộ GTVT thì ra tòa lãnh án.

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2010

Những Đồi Hoa Sim - Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà - Chuyện Hoa Sim

Mời bạn đọc xem và nghe lại các bản nhạc phổ hay cảm tác từ thơ bài "Màu Tím Hoa Sim" của nhà thơ Hữu Loan. Sưu tầm trên YouTube.













Tự phỏng vấn - Hữu Loan

Năm 1988, khi cuộc Đổi mới bắt đầu, nhà thơ Hữu Loan rất phấn chấn. Ông đã viết một bài "tự phỏng vấn" gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được in. Nay, 19 năm sau, nhà thơ 91 tuổi đã đồng ý để talawas công bố bài trên. Các chú thích trong bài được phóng viên talawas ghi trực tiếp theo lời của nhà thơ và gia đình trong cuộc gặp gỡ mới đây tại nhà ông.



talawas
 
 
Tiểu sử
Tên Hữu Loan cũng có tên đời là Nguyễn Văn Dao, Sắt Đỏ, Tốt Đỏ, Binh Nhì… Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù Viên Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân Hoàn, Nga Sơn, Thanh Hóa.



Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học sinh và nhà trường.

Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh và làm khởi nghĩa huyện nhà [1] . Cùng năm làm Ủy ban Lâm thời tỉnh phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công chính và Thương chính. Chán lại về đi cày và đánh cá nuôi bố mẹ già.

Từ nửa năm 1946 đến 1951, điện mời làm chủ bút báo Chiến sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ đường lối ưu tiên với văn nghệ sĩ [2] .

Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung Quốc, đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh Thi phản đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại không được, lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ đô lại có điện mời ra làm biên tập cho báo Văn nghệ, được mời vào làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia Nhân văn rồi bỏ về đi cày, đi thồ, từ 1958 cho đến giờ (cuối 1987) [3] …

Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm", đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có "vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà đã không thì cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan. Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ Nhân văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều… Họ thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là "Nhân văn"? Thế nào là "Vụ án Nhân văn"?

Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì hơn.

Phóng viên: Bác ngại sao?


Hữu Loan: Cũng ngại chứ!

Phóng viên: Vì sao vậy?

Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc.

Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều.

Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi:

“Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng.”

Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi:

“Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: ‘Chúng mày rồi hẵng…’ Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa về… Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương.”

Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi:

“Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu…”

Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng:

“Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v… được mua trước, đến mình thì hết phần…”

Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?

Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng, là gương để cho họ noi theo.

Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý nào bác lại sợ, lại hèn?

Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người không bị động bao giờ.

Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn xã hội hiện nay…

Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tên nôm na của ta là “Chống sùng bái cá nhân”.

Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có nhóm thành ngữ “ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ:

“Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?”

“Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.”

“Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…”

Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: “Ơn Đảng ơn Chính phủ”:

“Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?”

“Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn…”

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng đã tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”.

Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi câu “Ơn Bác ơn Đảng” và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan.

Khẩu hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Đảng!” Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính.

Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ “Hoa lúa”, 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài “Hoa lúa” về đăng Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng.

Anh bảo với vợ tôi: “Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!” Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không thắng…

Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách trắng vừa rồi.

Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân văn".

Hữu Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Đảng”. Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những “Ban Giải oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan….


Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như “đống xương vô định”. Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân văn là bài “Vấn đề pháp trị” do Nguyễn Hữu Đang viết [4] .


Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử… Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống còn của chế độ).


Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 – 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?


Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần” đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa Nguyễn Sáng vẽ [5] .

Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!


Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. [6]


Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.


Một người nhà báo hỏi ông:


“Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận.”


Ông Trương Chinh sửng sốt:


“Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi.”


Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết về “con đường đi lên” là Tổng cục Chính trị lúc bấy giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại.


Vì thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân văn số 1 như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết “Vạn ngôn thư”, “Thất trảm sớ”… Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả, việc giả, hàng giả… Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen.


Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc.


Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là "án Nhân văn".


Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: “Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi.


Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng.


Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi về…


Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng.


Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật.


Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy.


Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:


“Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Đảng.”


Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn nghệ.


Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân văn.


Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết.


Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: “Khi Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan"


Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào “Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại bảo “Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!”.


Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt.


Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế?


Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này:


Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha.


Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang.


Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá 30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu rơm cũng ôm.


Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào lên: "Sai rồi!" thì họ rất bình tĩnh trả lời: "Sai thì sửa!" hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân thành.


Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời này đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không còn tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Đảng viên ưu tú đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện những tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau v.v…


Hỡi những người Đảng viên quang vinh của Đảng Cộng sản vô cùng quang vinh, người dân đau khổ lâu đời lúc nào cũng đứng bên các bạn.


*



Phụ lục:


Hữu Loan

Giai thoại về một bài thơ



Hồi ấy vào đầu năm 1955. Tôi lúc ấy là cán bộ biên tập báo Văn nghệ ở Hà Nội. Tôi được cử đi cải cách ruộng đất ở xã Tứ Kỳ, Hải Dương. Cán bộ ai cũng “được” đi cải cách. Đấy là một vinh dự vì “chưa qua cải cách thì chưa thể làm người được".



Ngoài việc đi để làm người, tôi còn có nhiệm vụ viết bài cho báo. Theo tinh thần trong những buổi học tập trước khi đi thì nông dân được phát động vô cùng vui sướng phấn khởi. Ngay cả giai cấp địa chủ là có tội mà cũng không oán Đảng vì Đảng rất công minh. Nhưng thực tế thì khác nhiều. Địa chủ không dám oán đã đành nhưng nông dân, chính nông dân thì lại kêu ca rất nhiều về những hành động của anh em cốt cán, nhất là những gia đình liệt sĩ lại càng bị sách nhiễu hết mức như thu gian thuế, hay bắt phải làm cơm rượu cho hàng chục người ăn thì mới cho người đem giúp đến kho độ 5 yến thóc… Họ đều kêu là bao nhiêu từng áp bức, kêu trời, trời xa, kêu Bác Hồ còn cao hơn trời…


Tôi bèn làm một bài thơ gửi về tòa soạn.


Ngày hôm sau tôi nhận được điện khẩn của anh Xuân Diệu: “Hữu Loan về tòa soạn ngay!”. Chai lì như tôi mà vẫn thấy lo lắng. Vừa về gặp anh Xuân Diệu tôi hỏi ngay:


“Cái gì đấy anh? Lành hay dữ?”


Xuân Diệu trấn an ngay:


"Bài thơ hay quá!"


Tôi không khỏi lạ. Hay sao lại phải điện khẩn về, ai mà không khỏi hoảng.


“Nhưng phải sửa một câu thì mới đăng được.”


Tôi vội hỏi:


“Câu nào?”


“Câu: Cụ Hồ như trời cao / Kêu làm sao cho thấu!"


Tôi hơi bực:


“Đăng thì đăng cả, bỏ bỏ cả, cả bài tôi chỉ thích có câu ấy.”


Một lúc rồi Xuân Diệu mới rủ rỉ như tâm sự:


“Để câu ấy thì ra Bác kính yêu của chúng mình lại xa quần chúng à?”


Tôi khẳng định:


“Bác là thánh là trời thật, nhưng khi có những người cản mắt Bác thì Bác thấy quần chúng làm sao được. Chính những người như anh đang che mắt Bác đấy. Làm như tôi, lại không che. Tôi đề nghị anh thỉnh thị Bác, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài thơ này.”


Tôi không hiểu anh Xuân Diệu có dám thỉnh thị Bác không, nhưng bài thơ của tôi không được đăng. Tôi chắc lý do không đăng là vì Bác lúc nào cũng quan tâm đến quần chúng, khi quần chúng khổ đã phải thét lên thành tiếng thì Bác không thể nào bình tĩnh được.



© 2007 talawas







--------------------------------------------------------------------------------

[1]Ông gửi thư cho tên Bang tá ở huyện, vận động quan quân ở huyện hàng Việt Minh, không mất một viên đạn (theo lời kể của con trai út ông là Nguyễn Hữu Đán trước mặt ông).

[2]Ông cho biết là chính ông đi hỏi vợ cho tướng Nguyễn Sơn.

[3]Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông, kể trước mặt ông một số chi tiết sau: "Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê, gia đình rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm thêm. Lúc ấy ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã, ông nhà tôi chỉ băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ, song ông bảo tôi: ‘Thôi thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được.’ Ông ấy viết 4 lá đơn xin về, trong vòng hai năm mới được giải quyết. Lần cuối còn có hai anh cán bộ đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói từ sáng đến trưa, ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi, bảo: ‘Làm cán bộ, làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày.’ Hai anh ấy lại nhờ tôi khuyên ông. Tôi bảo: ‘Nhà tôi đã quyết thì không ai nói được đâu.’ Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 xe chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số đi học."

[4]Chú thích của talawas: Tên bài viết này của Nguyễn Hữu Đang là “Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên Nhân văn số 4, ở vị trí xã luận, trang 1 và trang 2, ngày 5.11.1956

[5]Chú thích của talawas: Tên bài hồi ký này của Hoàng Cầm là: “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần”, đăng trên Nhân văn số 1, trang 2 và trang 4, ngày 20.9.1956

[6]Chú thích của talawas: Truyện ngắn “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, Nhân văn số 5, trang 3 và trang 4, ra ngày 20.11.1956

[7]Chú thích của talawas: Truyện ngắn này đăng trên Nhân văn số 4, trang 3, ngày 05.11.1956

Thi sĩ Hữu Loan qua đời ở Thanh Hóa, hưởng thọ 95 tuổi (RFA)

RFA 18.03.2010


Vào 7 giờ 00 tối hôm qua, thi sĩ Hữu Loan đã qua đời tại tư gia ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, hưởng thọ 95 tuổi.

 
Nhà thơ Hữu Loan - Courtesy of Talawas


Hơn một năm qua, nhà thơ đã bị chứng thấp khớp ngày càng trầm trọng.

Người con dâu thứ ba của ông trả lời đài Á Châu Tự Do trong tiếng nhạc lễ tang: "Ông mất lúc 7 giờ 00 tối qua. Ông chỉ ngủ rồi đi luôn thôi. Lúc ấy thì chỉ có con dâu trưởng, vợ anh Công ở nhà. Tôi là con dâu thứ ba...."

Thi sĩ Hữu Loan nổi tiếng với các bài thơ bất hủ Màu Tím Hoa Sim, Hoa Lúa, Đèo Cả... Ông từng cộng tác với các tập san văn học hàng đầu tại Hà Nội hồi trước năm 1945.


Chuyện tình "Màu tím hoa sim" trở thành bài thơ của ông được cả nước biết đến và đồng cảm, vào thời gian trong và sau thời kháng chiến.

Hữu Loan tham gia kháng chiến chống Pháp, trở thành cán bộ quân sự cao cấp, nhưng sau xuất ngũ, rời khỏi đảng vì không đồng thuận với lý luận cùng đường lối cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam.
Và nhà thơ Hữu Loan đã sống với niềm u uất cho đến cuối đời.


Màu Tím Hoa Sim
Thơ: Hữu Loan



Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh


Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi


Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
Thì thương
người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê..


Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người em gái nhỏ hậu phương...


Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh...
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi !
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần


Ngày xưa...
Nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình
đêm khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưạ


Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Từ chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
Trước khi em lấy chồng


Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về
Cỏ vàng chân mộ chị
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt


Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
AIi hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
" Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu "...


Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...


(1949)

LÃO THI SĨ HỮU LOAN TỪ TRẦN

LÃO THI SĨ HỮU LOAN TỪ TRẦN
[18.03.2010 22:59 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]

(NCTG) Theo tin từ Việt Nam, vào hồi 19 giờ ngày 18-3-2010, thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim”, thành viên phong trào Nhân văn - Giai phẩm, đã từ trần tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn (xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa), thọ 95 tuổi.





Thi sĩ Hữu Loan trên sân gạch trước nhà ông (2006) - Ảnh: Văn Khoa

Ngay sau khi được tin về sự ra đi của lão thi sĩ, NCTG đã có một cuộc trao đổi nhanh với nhạc sĩ Phạm Duy từ TP HCM - đã phổ nhạc rất thành công thi phẩm “Màu tím hoa sim” - về mối giao tình giữa hai người bạn văn nghệ.

Nói về cảm xúc trước tin thi sĩ Hữu Loan qua đời, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết: “Lẽ tất nhiên, sự buồn rầu của tôi là phải có, khi được tin anh Hữu Loan từ trần. Nhưng anh mất đi khi đã gần một trăm tuổi thì tôi không phải tiếc thương quá đỗi vì sự thương tiếc của tôi cũng như của mọi người đã dành cho người vợ trẻ của anh qua đời trong kháng chiến rồi...”.

- Nhạc sĩ có thể cho biết những kỷ niệm cũ với nhà thơ Hữu Loan?

Nhạc sĩ Phạm Duy (PD): Tôi quen anh Hữu Loan từ ngày tôi vào Khu 4 năm 1948 và làm công tác văn nghệ trong Trung đoàn 9. Khi đó anh Hữu Loan là cán bộ trong Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hóa, ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi trong tỉnh, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục...

Biết anh cũng làm thơ, cùng anh đàm đạo về thơ, được nghe anh đọc bài “Màu tím hoa sim”, “Đèo cả”, “Tò he”, “Chiếc chiếu”, “Những làng đi qua”, “Hoa lúa”, v.v... Tôi đã có ý định phổ nhạc bài “Màu tím hoa sim” ngay từ lúc đó...

- Sau khi hồi hương, nhạc sĩ có dịp gặp lại thi sĩ Hữu Loan?

PD: Tôi có cơ hội về Thanh Hóa thăm Hữu Loan vào năm 2006 trong một ngày mưa lạnh và ngồi xe ôm để vào con đường nhỏ hẹp dẫn tới nhà ông...



Thấy nhà của thi sĩ rất khang trang, sạch sẽ. Vợ chồng Hữu Loan và người con cả tiếp đón tôi rất ân cần.


Tôi tặng thi sĩ một cuốn video trong đó tôi được phỏng vấn về bài “Áo anh sứt chỉ đường tà”.

Thế rồi chúng tôi chia tay nhau trong khi trời đã tạnh mưa...



- “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như “Những đồi hoa sim” (Dzũng Chinh), “Chuyện hoa sim” (Anh Bằng) và nhất là “Áo anh sứt chỉ đường tà” (Phạm Duy). Mỗi ca khúc một vẻ, đều tôn vinh vẻ đẹp của thi phẩm, nhưng ca khúc của nhạc sĩ đã phản ánh một cách bi hùng nhất những đau thương, mất mát của con người trong chiến trận. Tại sao nhạc sĩ lại chọn hình thức phổ nhạc như thế?

PD: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh và Anh Bằng phổ nhạc bài thơ “Màu tím hoa sim” một cách rất tốt, nhưng dùng hình thức “tiểu khúc” bình dân, ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Boléro, Slow Rock giản dị, dễ nghe, dễ hiểu...

Và cũng vì lý do các ông không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào âm nhạc.

Còn tôi, tôi muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5-7 đoạn, một “chant patriotic”. Có thế thôi!

Trần Lê thực hiện - Ảnh do nhạc sĩ Phạm Duy cung cấp

NHẠC SĨ PHẠM DUY VÀ CA KHÚC "ÁO ANH SỨT CHỈ ĐƯỜNG TÀ"

NHẠC SĨ PHẠM DUY VÀ CA KHÚC "ÁO ANH SỨT CHỈ ĐƯỜNG TÀ"[07.01.2005 17:52 - Nhịp Cầu Thế Giới Online](NCTG)


Trong những ngày cuối năm ngoái, báo chí trong và ngoài nước đều nhất loạt đăng tin về sự kiện Công ty cổ phần điện tử Vitek TVB bỏ 100 triệu đồng để mua bản quyền sử dụng thi phẩm "Màu tím hoa sim" (MTHS) của nhà thơ Hữu Loan, một bài thơ mà theo tổng giám đốc Vitek, ông Lê Văn Chính, trong một cuộc trao riêng với người viết những dòng này, có thể coi là "một tác phẩm kinh điển, biểu trưng cho nền thi ca Việt Nam" (*).

Hẳn nhiên, bản thân MTHS - với lời thơ dung dị, cảm động, xuất phát từ cảm xúc mãnh liệt và bi tráng của nhà thơ - người lính Hữu Loan - cũng đã khiến tác phẩm trụ lại được với thời gian và trong lòng bạn đọc. Tuy nhiên, có thể nói là MTHS được lưu truyền khắp miền Nam từ thời đất nước còn bị chia cắt, được bao thế hệ thuộc lòng và nhẩm hát, phải nhờ những nhạc sĩ chắp cánh cho lời thơ. "Những đồi hoa sim" (Dzũng Chinh) (**), "Chuyện hoa sim" (Anh Bằng) và "Áo anh sứt chỉ đường tà" (Phạm Duy), một ca khúc có một vẻ đẹp khác nhau, nhưng đều tôn vinh thi phẩm MTHS, biến nó trở thành bất tử trong lòng người hâm mộ.Trong số 3 ca khúc trên thì "Áo anh sứt chỉ đường tà" (Phạm Duy) ra đời sớm nhất và có lẽ đã phản ánh được trọn vẹn nét bi hùng trong thi phẩm MTHS. Nhân dịp này, chúng tôi đã có dịp trao đổi với nhạc sĩ Phạm Duy (PD), cây đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam, hiện đang sống tại Mỹ và đang chuẩn bị cho chuyến hành hương về Việt Nam.




Bản gốc MTHS, được tác giả Hữu Loan ký chứng thực và được đăng ký tại Cục Bản quyền

NCTG:Xin nhạc sĩ cho biết ông đã phổ nhạc cho bài thơ MTHS trong hoàn cảnh nào và những kỷ niệm của ông liên quan đến ca khúc này, cũng như với tác giả bài thơ (nếu có).

PD: Về MTHS cũng như kỷ niệm giữa tôi và Hữu Loan, tôi đã nhắc đến trong "Hồi ký Thời Kháng chiến" của tôi. Xin gửi lại đoạn đó."Trong năm 1948, tôi đang ở Thanh Hóa, nằm trong Chiến khu Bốn của tướng Nguyễn Sơn. Nhờ ông tướng rất yêu văn nghệ này khuyến khích, tôi xung phong đi bộ vào Bình Trị Thiên...

... Sau nhiều ngày gian nan, vất vả và nguy hiểm, tôi tới địa phận Quảng Bình. Trước cảnh đau thương của chiến tranh và "nghe" được tiếng lòng của nhân dân, tôi soạn ngay tại đây một bài hát nhan đề "Bao giờ anh lấy được đồn Tây":

Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng
Không bóng trâu cầy bên đồng
Vắng tiếng heo gà trên sân.
Chiều qua gánh nước cho Vệ quốc quân
Nghe tiếng o nghèo kể rằng:
Quân thù về đây đốt làng...

Tuy đã đi kháng chiến từ 1945, đây là lần đầu tiên tôi thấy được sự thống khổ của người dân trong vùng bị Pháp chiếm. Tôi biết được rằng phụ nữ ở đây bị hãm hiếp 200 phần trăm, nghĩa là gia đình nào cũng có mẹ, có chị, có em gái bị làm nhục, mỗi người tối thiểu cũng bị hiếp hai lần. Do đó, người dân ở đây ai cũng mong chờ Vệ quốc quân về đánh đồn:

Bao giờ anh lấy được đồn Tây, hỡi anh?
Để cho cô con gái không buồn vì chiến tranh.

Sau này, khi tôi trở về Thanh Hóa và lên Việt Bắc, qua bài hát này, có nhiều người có nhiệm vụ lãnh đạo văn nghệ phê bình tôi là tiêu cực. Họ nói: "Dân chúng phải tự động đứng lên đánh đồn, đừng chờ Vệ quốc quân..." Tôi buồn và nghĩ rằng có lẽ những người này chưa bao giờ nhìn thấy cảnh quê nghèo ở miền Trung trong chiến tranh, chưa có dịp nhìn thấy những ruộng khô có những ông già rách vai, cuốc đất bên đàn trẻ gầy và chỉ có người bừa thay trâu cầy... như tôi nhìn thấy vào năm 1948 này. Hay là đã chưa có dịp nghe được tiếng o nghèo, miệng thì thở dài, đôi bàn tay khẳng khiu thì vỗ về trẻ thơ bùi ngùi trong những nửa đêm thanh vắng không một bóng trai... Không một bóng trai, bởi vì bao nhiêu người trai ở trong làng đều đã bị giết chết cả rồi. Lấy đâu ra trai làng để đi đánh đồn Tây? Hở những người sẽ trở thành nhất tướng công thành vạn cốt khô? Nhờ ở chuyến đi công tác tại đây mà tôi thấy được bộ mặt khác của kháng chiến. Trong vinh quang của chiến đấu có thống khổ của chiến tranh. Con người không phải lúc nào cũng chỉ ở trong hoàn cảnh hùng dũng mà nhiều khi còn bị đẩy vào những cảnh bi thương. Và không chỉ có tôi mới nhìn thấy sự kiện đó.



Nhạc sĩ Phạm Duy ở chiến khu Bình Trị Thiên (1948)


Ở ngay trong Khu IV lúc này, một cán bộ chính trị kiêm thi sĩ, với bút hiệu Hữu Loan, cũng nói tới nỗi bi thương của những đôi vợ chồng trẻ trong chiến tranh:

Nhà em ở dưới mái chè
Chồng em chết trận em về quay tơ...

Hữu Loan trông bề ngoài rất là oai, nhất là khi anh cưỡi ngựa đi công tác trong khu IV này. Đầu húi cua, tiếng nói lớn, và khi ngủ thì ngáy như sấm, vậy mà khi làm thơ thì toàn là thơ buồn. Anh còn có một bài thơ rất nổi danh sau này là bài MTHS mà nhiều người đã phổ nhạc, trong đó có tôi:

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương...

... Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu...


Tôi không nghĩ rằng văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến là phải viết ra những bài uống máu quân thù, ăn thịt giặc không tanh... hay là phải xây dựng những con người Việt Nam bằng sắt bằng đá. Người nghệ sĩ còn phải nói lên tiếng nói con tim của những người đang hi sinh hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc gia đình để đi chiến đấu".Ngoài ra, trong một bài báo ở Sài Gòn năm 1995, Hữu Loan nhắc tới bài thơ MTHS và tôi, xin trích:




"Tiếp đó, anh kể chuyện vừa rồi, các cô gái Huế lặn lội ra Thanh, dừng chân ở đâu hỏi thăm Hữu Loan người ta cũng biết, cũng chỉ đường. Các cô biết nhà thơ trước hết qua nhạc rồi mới biết đến thơ và nay là người. Tôi hỏi:

- Cái bản nhạc suốt ngày rên rỉ "Nàng có ba ngưòi anh đi quân đội..." là của ai?

- Phạm Duy. Lúc ấy Thanh Hóa là "thủ dô văn nghệ" kháng chiến. các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Ngọc Phan, Hằng Phương, Lưu Trọng Lư... và cả các trí thức Đặng Thái Mai, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu đều về quê ta cả. Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Duy và bọn tôi là lính của tướng Nguyễn Sơn. Mình cưới vợ vào thời ấy và làm MTHS cũng vào thời ấy. Phạm Duy phổ nhạc nhưng lúc vào thành mới đem ra hát. Chuyện trong bài thơ là chuyện thật của đời mình!"

NCTG:"Áo anh sứt chỉ đường tà" đã được nhiều thế hệ ca sĩ Việt Nam thể hiện, từ Thái Thanh đến Elvis Phương. Nhạc sĩ có thể cho biết nhận xét của ông về những version này?

PD: Từ khi ra đời, đã có nhiều ca sĩ nổi danh hát bài "Áo anh sứt chỉ đường tà" trên các đài phát thanh, các đại nhạc hội, các phòng trà, các cassettes, các CD, v.v... Tôi đã có một phonothèque giữ lại những giọng hát đó, trong thời gian qua đã diễn tả một cách tuyệt vời bài "Áo anh sứt chỉ đường tà". Đó là những giọng hát lớn: Thái Thanh, Duy Quang, Elvis Phương, Vũ Khanh, Mai Hương, Bích Liên, Diệu Hoàng... Mỗi người đều có một lối diễn tả riêng. Tôi rất muốn cám ơn tất cả những ca sĩ này vì họ đã chọn một bài hát khó hát nhất, trong ba bài nhạc phổ thơ Hữu Loan.

NCTG:Nhạc sĩ có ý kiến gì về sự kiện Công ty Vitek VTB mua bản quyền bài thơ MTHS?

 PD: Tôi hoan nghênh việc làm của ông Lê Văn Chính. Tôi chia vui với anh Hữu Loan trong việc được người đời thương yêu một cách thực tế nhất. NCTG: Xin chân thành cám ơn nhạc sĩ Phạm Duy!

Thi sĩ Hữu Loan: Tác giả 'Màu Tím Hoa Sim' đã ra đi…

Nguyễn Xuân Hoàng

Hôm thứ Năm 18 tháng Ba, 2010, hộp thư tôi tràn ngập mail bạn bè gửi về với tiêu đề Tác Giả Màu Tím Hoa Sim Đã Ra đi… Thư của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao từ Quận Cam, thư của nhạc sĩ Trần Nhật Hiền từ San Jose, thư của Lê Tấn Lộc từ Canada… tất cả thư từ về tin thi sĩ Hữu Loan vừa ra đi đều có kèm theo hình của thi sĩ chụp bên người vợ.

Bức hình đi kèm ghi chú:

Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009. Tác giả bức ảnh là Hồ Trần.

Bản tin ngắn ký tên Ngân Hà có nội dung như sau:

Vào lúc 19g00 tối nay 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu Tím Hoa Sim" đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cái về đông đủ, bà Nhu, vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày.


Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo Văn Nghệ.


Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó, người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất (1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu Tím Hoa Sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ cũng là mãi mãi.


Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.


Đêm nay, xin thắp một nén hương thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.


Sự ra đi của Hữu Loan, tác giả bài thơ được nhắc nhở cả hai miền Nam Bắc trong suốt cuộc chiến Việt Nam và cả những năm sau cuộc chiến, có lẽ còn nói và viết nhiều. Nhưng có một vài chi tiết bên lề có lẽ rồi đây sẽ được nói rõ: Bài viết của Ngân Hà cho biết tên người vợ đầu tiên của thi sĩ là Nguyễn thị Ninh và người vợ sau là Nguyễn thị Nhu, thế nhưng bản tin trên tờ Thanh Niên cho biết người vợ trẻ có tên là Đỗ Thị Lệ Ninh “đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn” và ngay tên người vợ sau của thi sĩ cũng khác họ. bài viết ghi bà tên Nguyễn Thị Nhu trong khi chú thích ảnh thì ghi là Phạm Thị Nhu.. Nhưng trong bài Tự Thuật của thi sĩ thì người con gái trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh con ông Lê Đỗ Kỳ. Thi sĩ viết: “Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.


Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...”

Trong một email của nhạc sĩ Hoàng Thi Thao tôi được đọc bài trả lời phỏng vấn của báo Nhịp Cầu Thế Giới ở Hungary, nhạc sĩ Phạm Duy cho biết ông quen Hữu Loan từ ngày ông vào Khu 4 trong năm 1948 và làm văn nghệ trong Trung Đoàn 9. “Khi đó anh Hữu Loan là cán bộ trong Ủy Ban Kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi trong tỉnh, trông rất oai nghiêm khiến tôi bái phục.. Biết anh cũng làm thơ, tôi cùng anh đàm đạo về thơ, được nghe anh đọc bài Màu Tím Hoa Sim, Đèo Cả, Tò He, Chiếc Chiếu, Những Làng Đi Qua, Hoa Lúa… Tôi đã có ý định phổ nhạc bài Màu Tím Hoa Sim ngay từ lúc đó…”

Phạm Duy cũng cho biết năm 2006, khi trở về nước, ông có đi xe ôm trong một ngày mưa lạnh đến Thanh Hoá thăm Hữu Loan và có tặng Hữu Loan một video trong đó có phần ông trả lời phỏng vấn về bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà…

Trả lời câu hỏi "Màu Tím Hoa Sim" của Hữu Loan đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như "Những đồi hoa sim" (Dzũng Chinh), "Chuyện hoa sim" (Anh Bằng) và nhất là "Áo anh sứt chỉ đường tà" (Phạm Duy). Mỗi ca khúc một vẻ, đều tôn vinh thi phẩm, nhưng ca khúc của bác đã phản ánh một cách bi hùng nhất những đau thương, mất mát của con người trong chiến trận. Tại sao bác lại chọn hình thức phổ nhạc như thế?” Phạm Duy nói: Hai nhạc sĩ Dzũng Chinh, Anh Bằng phổ nhạc bài thơ Màu Tím Hoa Sim một cách rất tốt nhưng dùng hình thức ‘tiểu khúc’ bình dân ngắn ngủi chỉ có một đoản khúc Pop Bolero, Slow Rock, giản dị dễ nghe, dễ hiểu… Và cũng vì các ông này không có kinh nghiệm đi kháng chiến nên không đem được nhiều cảm xúc buồn thương hay hùng vĩ vào trong nét nhạc. Còn tôi thì muốn soạn một “đại khúc” (grand music) bi hùng dài tới 5, 7 đoạn, một “chant patriotic. Có thế thôi!”

Trong bài Tự Thuật của Hữu Loan, thi sĩ cho biết “…cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”

“Thơ tôi làm ra không phải để bán!”

Hữu Loan đã viết như thế trong bài tự thuật.

Thi sĩ Hữu Loan ra đi, nhưng bài thơ Màu Tím Hoa Sim của ông sẽ còn ở lại mãi mãi với chúng ta.

Nguồn: VOA Tiếng Việt

Thứ Năm, 18 tháng 3, 2010

Nhân đọc "còn lề để giữ"

Bạn,

Cái thú vui nhỏ nhoi của tôi là dạo net và tìm những bài viết hợp sở thích nghe nhạc. Vậy nên rất thấm khi đọc xong bài này của nhạc sĩ Quốc Bảo:

http://www.quocbaomusic.com/?p=1731

Giữ lấy lề, với người đang làm nghề, đó là đừng làm điều gì xấu mặt Nhạc Trẻ Saigon. Đừng viết nhảm nhí. Đừng bình luận ngớ ngẩn. Đừng hỗn láo.

Vâng, đối với người làm nhạc là vậy, với người thưởng thức nhạc như tôi thì cũng không khác lắm đâu. Riêng tôi, với tâm trạng hoài niệm quá khứ về một Sài gòn xưa, nên rất mê tìm kiếm nhạc trước 75. Sài gòn đổi chủ cũng 35 năm rồi, người Saigon xưa cũng tan tác, xa lạc bốn phương trời. Giấy rách giữ lấy lề. Còn chút gì đề nhớ, để sưu tầm, thì cùng nhau góp nhặt và trân trọng và nhớ về một thời hoàng kim Nhạc Trẻ. Nghe những bản nhạc đơn sơ và xa xưa đó, sao thấy còn thân mật gấp trăm lần những bản nhạc Mỹ hôm nay dù với hòa âm trau chuốt.

Bạn có thể download một số bài nhạc trẻ xưa về nghe ở đây: http://amnhacviet.net/tapebef75-nhactre.htm

Vài thí dụ:

NHẠC HỒNG

NHẠC TRẺ 2 Mặt A - Mặt B

NHẠC TRẺ 3  Mặt A - Mặt B


TÙNG GIANG 1

TÙNG GIANG 2

TÙNG GIANG 3

TÙNG GIANG 4

TÙNG GIANG 5

TÙNG GIANG - Băng vàng


Hoctro
3/18/10

Thứ Tư, 17 tháng 3, 2010

Blogger Template Designer

Bạn mến,

Google vừa mới cho ra lò cuối tuần trước (11 tháng 3) một tính năng mới, cho phép thay đổi giao diện (interface) rất nhanh và đẹp nữa. Ai trước kia cần trang nhà có 3 cột dọc, hay hình ảnh nền không đẹp, mẫu nhàm và không đẹp, v.v. thì nay sẽ được toại nguyện với tính năng mới này.



Hoctro cũng loay hoay thử trên trang này khoàng nửa ngày trời, trang mới rất đẹp, nhưng cái video mash-up hoctro làm không còn work nữa, cuối cùng đành phải trở về một trong các template cũ. -(Update 4/29/2010: hoctro đã sửa xong nên đã chuyển sang một design mới.)



Bạn có thể tìm hiểu thêm cách dùng ở đây:

http://bloggerindraft.blogspot.com/2010/03/blogger-template-designer.html

Hay xem thử video giới thiệu:

http://www.youtube.com/watch?v=r6haqZoivBQ&feature=player_embedded

Thân ái chào bạn,

Hoctro

Thứ Hai, 8 tháng 3, 2010

Dù tiếc ngẩn ngơ nhưng Paul Mauriat cũng đã đi rồi...

Tình cờ hoctro đọc được bài viết đăng dưới đây từ trang Vietbao.vn . Bài viết cho thấy một trình độ cảm thụ âm nhạc cao của người ký giả, làm người đọc cũng xúc động không kém. Riêng tôi, tôi tưởng tôi "biết" Paul Mauriat nhiều, nhưng qua khám phá mới gần đây của tôi, thì có khoảng nửa số bài ông đã ghi âm (500 bài)trên tổng số 1000+ bài là tôi chưa hề nghe qua!!! Vậy nên tôi đã quyết chí khiêng cái discography của Paul từ một trang tiếng tây ban nha về làm của riêng, rồi lắp các bài đã có trên YouTube vào.


"Ở Việt Nam khi những đĩa nhạc Paul còn rất khó mua ở thời bao cấp đã từng có người bỏ cả chỉ vàng hoặc cầm cố cả chiếc xe máy chỉ để sở hữu một chiếc đĩa nhựa mà Paul đã xuất bản khá lâu trước đó. "


Hy vọng từ nay dân nghe nhạc Paul khỏi cần cầm xe máy nữa, chỉ cần "nhấp" chuột vào trang Paul Mauriat Discography là có thể nghe nhạc của ông rồi :-)

"Paul qua đời, những người xưa cũ bỏ cả chỉ vàng, bán cả xe đạp, cầm cố xe máy để có chiếc đĩa than, tối về ngẩn ngơ nghe lại giờ có buồn?"

Buồn chứ sao không buồn? Hỏi hay nhỉ??? :-)
****

Dù tiếc ngẩn ngơ nhưng Paul Mauriat cũng đã đi rồi...

Thứ tư, 08 Tháng mười một 2006, 10:32 GMT+7

Tin Paul Mauriat qua đời được đăng trang trọng vài dòng trên các tờ báo lớn vài ngày qua nhưng sức nặng của nó vẫn dễ làm đau lòng nhiều thế hệ nghe nhạc.


Paul Mauriat, cái tên gắn liền với những con đường Paris, Sài Gòn, Hà Nội, New York, Roma, gắn liền với những cuộc dạo chơi cuối tuần bằng xe đạp, vespa, bằng những cơn gió cuối thu, bằng những nụ hôn kỷ niệm của những người giờ đã trạc tứ tuần, của những người vừa chớm biết lắng nghe những tinh âm của dòng nhạc xưa cũ... Con người ấy vừa ra đi, bỏ lại sự hoài niệm trong con tim của những người đã một thời cùng ông lắc lư với những giai điệu đến giờ vẫn có thể huýt sáo không sai một nốt.



Người Việt, ít ra với những ai yêu âm nhạc, đều đã từng ghi vào sổ-tay-ký-ức mình một bài hát nào đó với cái tên Paul Mauriat. Ông không phải thánh, cũng chẳng phải thiên thần nhưng ông là chiếc đèn vàng ngay ngã tư đường, đủ làm giảm tốc những cuốc đi vội vã của những xu thế mới.



Paul không vội vã cũng chẳng thích làm cách mạng hay tạo nên một xu thế nhưng ông đủ sức tạo nên sự khác biệt để bây giờ khi ông đã ra đi những giai điệu của ông vẫn in trong tâm trí của những kẻ mê âm thanh thuần khiết. Nhắc đến Paul Mauriat là nhắc đến sự pha lẫn điện tử và dàn dây căng độ bè hài hòa, là tiếng vọng của cả một dàn violin trong tiếng bass điện tử nghe bập bùng như bọt nước trồi trên mặt hồ...


Trước ông, nhiều người đã có sáng tạo đột biến. Sau ông, những xu hướng mới đã tạo ra rất nhiều lối đi mới nhưng chưa bao giờ ông lạc thời bởi những thanh âm ông tạo ra là sự tụ ghép của những điều cũ mới. Những bản tình ca, những tinh hoa cổ điển được Paul chơi lại bằng thế giới của riêng ông và ai đã lạc vào đó sẽ khó lòng dứt ra được.

Paul Mauriat mất (chính xác là hôm 04/11/2006), thọ 81 tuổi. Lý lịch ông cũng chẳng có gì đáng nói hơn những nhạc sĩ tên tuổi khác ngoài thống kê cho thấy cuộc đời đi biểu diễn của ông dài gần 800.000 km, từ Âu sang Á, từ Tây về Đông, tức lớn hơn 2 lần khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng.


Nhắc đến mặt trăng để nhớ lại những thanh âm Paul Mauriat từng tấu lên ca ngợi chị Hằng, để bay lên cung trăng, nô giỡn giữa các vì sao, chiếu vàng những dòng sông xanh cổ tích... Ánh trăng trong thế giới của Paul không lung linh trầm mặc nhưng có độ co giãn cho những cảm giác đi - về.



Cũng như thế, nhạc của Paul hợp với khí hậu thời tiết mọi mùa và xa hơn, phù hợp với mọi loại cảm giác trong ngày và chưa bao giờ đẩy nó đi quá xa. Ngày đông lạnh giá nghe Tombe La Neige, ngày hè rộn rã nhảy nhót trong tiếng El Bimbo trong những quán cafe mùa hè. Ngày thu đi câu cá trong tiếng giun dế ngắt quãng của Pearl Fishers, đêm về làm một cuộc hành trình tưởng tượng với Jours en France hay day dứt với tiếng nắn nót piano trong Last summer day...







Nhạc của Paul dễ nhớ, dễ yêu bởi nó len lỏi con tim bằng giai điệu. Paul không đi tìm những trúc trắc để người nghe suy ngẫm, ông chỉ bày lên bàn những món ngon của mình và mời người nghe thưởng thức. Cho đến giờ nghe lại, những giai điệu của ông vẫn đẹp, cao rộng dù rằng với những đôi tai chọn lọc, đây vẫn chưa phải là món sơn hào hải vị.



Cùng thời với Paul còn khá nhiều nhạc sĩ, chỉ huy dàn nhạc tên tuổi khác như Montovani, Frank Pourcel, Ray Conniff, nhưng Paul vẫn được nhớ nhiều nhất ở tầm mức phổ thông.


20 năm sau, những chương trình trực tiếp bóng đá trên truyền hình ở Việt Nam vẫn tiếp tục mở Alla figaro của Paul Mauriat khi chờ trận đấu bắt đầu. Hơn 30 năm sau, bản hòa tấu Those were the days của ông vẫn được yêu thích, thậm chí còn làm mờ đi cả giọng hát của Mary Hopkins. Gần 40 năm trôi qua, người ta vẫn nhớ L"Amour est bleu của Paul hơn là phần ghi âm nguyên thủy của Vicky Leandros...


Paul đến và ở lại Việt Nam từ rất lâu, từ khi bài hát Tình xanh (L"Amour est bleu) của ông nổi đình nổi đám trên các bảng xếp hạng ở Mỹ hồi năm 1969, dù rằng trước đó ông đã nổi từ 1961 với album đầu tay Paris by night hay xa hơn nữa, từng làm dàn nhạc trong các buổi biểu diễn của các giọng ca đại thụ như Charles Aznavour hay Maurice Chevalier. Từ đó dân Việt mê ông và săn tìm các đĩa nhạc mới nhất của ông.


Ở Việt Nam khi những đĩa nhạc Paul còn rất khó mua ở thời bao cấp đã từng có người bỏ cả chỉ vàng hoặc cầm cố cả chiếc xe máy chỉ để sở hữu một chiếc đĩa nhựa mà Paul đã xuất bản khá lâu trước đó. Chỉ cần chiếc đĩa có nhãn hiệu Phillips đó về tới Việt Nam là những tay máu me sẽ tìm mọi cách để giành giật và xem đó là một kỳ tích của riêng mình.


Paul qua đời, những người xưa cũ bỏ cả chỉ vàng, bán cả xe đạp, cầm cố xe máy để có chiếc đĩa than, tối về ngẩn ngơ nghe lại giờ có buồn? Và chiếc đĩa than mang nhãn hiệu Phillips đó giờ tồn tại nơi đâu? Sẽ có những tiếc nuối ngẩn ngơ khi Paul qua đời dù rằng gần 10 năm qua ông không đụng đến chiếc đũa chỉ huy và cho dù thực tế đang có rất nhiều tên tuổi mới xuất hiện và thành công.


Theo Minh Cường - VietNamNet
Girls Generation - Korean