Thứ Bảy, 29 tháng 1, 2011

Cheryl Crow - Soak Up The Sun

Bạn,

Sáng qua đi làm nghe bài nhạc của Cheryl Crow với nhan đề là "Soak Up The Sun" (tận hưởng ánh dương), thấy có nhiều chỗ viết lời hay quá, bèn để ý và đi tìm, thì lại thấy video cũng đẹp, và lời nhạc còn có thêm nhiều ẩn dụ nữa.

Trước tiên là câu "I don't have digital, I don't have diddly squat". I don't have digital thì cũng giống như tình trạng của tôi hiện nay, không phải thiếu tiền mua một cái smart phone "Droid" để bằng anh bằng em, mà vì tôi nghĩ mình lệ thuộc vào máy móc điện toán điện tử nhiều rồi, nay lại càng lệ thuộc hơn nữa nếu own một cái "Droid". Nhưng câu sau thì mới zui, I don't have diddly squat, nhái lại âm digital, nhưng "diddly squat" thì là chẳng có gì cả, mà theo nghĩa bất cần đời, "đếch thèm".

Thứ hai là câu điệp khúc: I'm gonna soak up the sun, Gonna tell everyone, To lighten up . Lighten up theo người Mỹ hay dùng thì có nghĩa là "thôi bỏ đi Tám", đại sự biến vi tiểu sự, tiểu sự biến vi vô sự, take it easy. Nhưng "soak up the sun" mà đi cùng với "lighten up" thì quả là tuyệt hảo, vì khi mình thu hút, tận hưởng ánh nắng mặt trời, thì nếu người mình không phản xạ, tỏa ánh sáng ra thì đâu có phải là lighten up?

Bài hát ca ngợi sự đơn giản trong đời sống, quay trong khung cảnh Sunny Southern California nơi tôi làm chốn định cư hơn hai mươi năm qua, gần bằng thời gian sống ở VN, làm tôi càng thấy khoái bài nhạc này hơn. Trước kia tôi chỉ biết và thích bài All I wanna do http://www.youtube.com/watch?v=X5ouOa9k0gE , nhưng nay lại có thêm Soak Up The Sun trong danh sách nhạc hay rồi.

Các ý kiến khác về bài Soak Up The Sun ở đây:

http://www.songfacts.com/detail.php?id=2794








Soak Up The Sun 

Writer(s)Sheryl Crow, Jeff Trott
ProducerSheryl Crow

My friend the communist
Holds meetings in his RV
I can't afford his gas
So I'm stuck here watching TV
I don't have digital
I don't have diddly squat
It's not having what you want
It's wanting what you've got

[CHORUS:]
I'm gonna soak up the sun
Gonna tell everyone
To lighten up (I'm gonna tell 'em that)
I've got no one to blame
For every time I feel lame
I'm looking up o I'm gonna soak up the sun
I'm gonna soak up the sun


I've got a crummy job
It don't pay near enough
To buy the things it takes
To win me some of your love
Every time I turn around
I'm looking up, you're looking down
Maybe something's wrong with you
That makes you act the way you do
Maybe i am crazy too

[CHORUS]

I'm gonna soak up the sun
While it's still free
I'm gonna soak up the sun
Before it goes out on me


Don't have no master suite
I'm still the king of me
You have a fancy ride, but baby
I'm the one who has the key
Every time I turn around
I'm looking up, you're looking down
Maybe something's wrong with you
That makes you act the way you do
Maybe I am crazy too

[CHORUS]

I'm gonna soak up the sun
Got my 45 on
So I can rock on.

Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011

The Uniqueness of the Human Brain, by V.S Ramachandran

Bạn,

Vị giáo sư V.S. Ramachandran này có biệt tài tìm ra nguyên nhân của nhiều chứng bệnh về não. Mời xem video ông ta thuyết trình:


http://video.google.com/videoplay?docid=-4684607596399338611#

 



The Uniqueness of the Human Brain
Lecture 6 of 12 of IBM Research's Almaden Institute Conference on Cognitive Computing.

This one takes place during the reception and banquet dinner. Ramachandran discusses phantom limbs and synesthesia (esp. color-blind synesthete) as a function of neuron innervation. Specifically, he focuses on cross-linking between nearby cortical regions, which he believes to be genetically caused (e.g. synesthesia appears to be found frequently in family lineages). He also discusses the link between mirror neurons and autism, and how language invention is due to an inherent cross-linking between portions of the visual and auditory regions (e.g. Buba/Kiki effect).

Ramachandran's Powerpoint presentation:

http://www.almaden.ibm.com/institute/resources/2006/Almaden%20Institute%20V.S.%20Ramachandran.ppt.

All lectures:

http://video.google.com/videosearch?q=almaden+cognitive+computing

Chủ Nhật, 23 tháng 1, 2011

Xuân về, Nghe lại khúc ca “Hoa xuân” và Tôi đi tìm kho tàng của Phạm Duy

Bạn,

Nhạc sĩ Phạm Duy vừa gửi hai bài viết qua email đến các thân hữu của ông. Nhận thấy các bài viết rất giá trị, tôi đăng lại đây để bạn cùng xem


***


Xuân về, Nghe lại khúc ca “Hoa xuân”
(16:52 22/01/2011)

Khi mùa xuân đến, những khúc ca về mùa xuân lại vang lên, ngân vút rộn ràng. Trongnhiều khúc ca về mùa xuân diệu vợi, tôi luôn có ấn tượng sâu sắc với ca khúc “Hoa xuân” của nhạc sĩ Phạm Duy mỗi khi nghe lại.

Xuân vừa về trên bãi cỏ non/  Gió Xuân đưa lá vàng xuôi nguồn/ Hoa cười cùng tia nắng vàng son/ Lũ ong lên đường cánh tung tròn/ Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi/ Muốn yêu anh vác cầy trên đồi/ Hay là yêu chiến sĩ ngàn nơi/ Thấy hoa tươi cười bỗng thương đời/ Xuân! Hoa còn tươi mãi/ Hoa vì nhân thế biết sum vầy cuộc vui/ Xuân! Hoa nở vì ai/ Tay nhịp bàn tay cùng đắp xây ngày mai...”.

Những nét nhạc dịu dàng như mùa xuân đang len qua kẽ lá mà về với nhân gian, về với lòng người. Âm hưởng nghe êm ái như tiếng ru, mặc dù nhạc sĩ chỉ dùng những nốt nhạc vô cùng đơn sơ nhưng thật dễ hát dễ nghe và dễ bị “hớp hồn”. Rồi càng lắng nghe ca khúc, ta như thấy đâu đó có những chiếc lá vàng rơi rụng và nơi ấy những mầm xanh như chợt nhú lên mang sức sống mới cho đời, và hơn thế, như muốn nâng đỡ cho những con người trong phút giây “xao lòng” trở mình đứng dậy.

Một điều lạ trong những câu mở đầu của ca khúc này là hình tượng của chiếc lá vàng rơi rụng trong một khung cảnh xuân, ngập tràn hoa xuân? Lạ, nhưng đó là dụng ý nghệ thuật của nhạc sĩ Phạm Duy. Bởi, nếu chúng ta để ý kỹ một chút thôi thì ta sẽ thấy tác giả không cho chiếc lá vàng rụng rơi tơi tả mà lại cho chiếc lá xuôi theo làn gió xuân quay về nguồn cội. Quả là một dụng ý nghệ thuật tuyệt vời. Tuyệt vời, bởi vì ngay sau đó, ông đã đưa những hình tượng rực rỡ của mùa xuân tuôn trào lên ý nhạc: “Hoa cười cùng tia nắng vàng son/ Lũ ong lên đường cánh tung tròn...”, một hình tượng thật đẹp trong bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động của mùa xuân.

Sống tiếp với lời ca, lòng ta lại tiếp tục ngân rung bởi những nét nhạc, lời ca như lung linh, ngộ nghĩnh: Hoa cười cùng tia nắng xuân, nhưng hoa lại chẳng yêu lũ bướm lả lơi ve vãn. Vì sao vậy? Vì sao giữa một khung cảnh xuân như thế mà hoa lại từ chối sự ve vãn lả lơi của lũ bướm? Hóa ra thì, như nhiều người đã từng cho rằng: mùa xuân đối với ông, hoa xuân đối với ông như phần thưởng của thiên nhiên cho dân tộc, cho con người Việt Nam đáng yêu, dù cho là anh dân cày nơi đồng xa hay anh chiến sĩ đang cầm súng đứng gác ở biên cương, hoa muốn được cười để mang niềm vui đến cho mọi người trong ngày xuân tươi mới, chứ không phải hoa khoe sắc lả lơi tình tứ õng ẹo với những kẻ đào hoa như lũ bướm dập dìu kia. Cái tình chung ông muốn gửi đến cho nhân thế là vậy. Mà phải chăng đó cũng chính là điều luôn làm cho lòng người thổn thức, ngẫm suy. Thổn thức vì nốt nhạc, ngẫm suy vì thế thái nhân tình. Mà cái thế thái nhân tình trong “Hoa xuân” là sự nhẹ nhàng, dìu dặt, chứ không phải dậy lên thôi thúc, kể cả những lúc nốt nhạc, lời ca được lặp đi lặp lại: Xuân! Hoa còn tươi mãi/ Hoa vì nhân thế biết sum vầy cuộc vui/ Xuân! Hoa nở vì ai/ Tay nhịp bàn tay cùng đắp xây ngày mai”.Nghe lời ca, ta cảm thấy như lớp lớp hoa xuân đang nhẹ theo làn gió e ấp vào lòng người; để nói lên cái ý tứ của hoa không chỉ để khoe sắc thôi, mà còn biết xây đắp cho đời, để nhân thế mãi vui vẻ sum vầy bên nhau nữa...

“Có một chàng thi sĩ miền quê/ Ngắt bông hoa biếu người xuân thì/ Có một đàn em bé ngoài đê/ Hát câu i tờ đón Xuân về/ Những đoàn người trên luống cầy nâu/ Thấy hoa xuân phép lạ ra màu/Bỗng nhủ lòng ra sức cầy sâu/ Tiếng ca như thể tiếng kinh cầu/... / Xuân! Hoa tỏa hương mới/ Nhân quần ân ái đã kêu đòi niềm vui/  Xuân! Hoa là tình tôi/ Đua nở cùng ai cùng quyến luyến mọi nơi/ Có một bầy thôn nữ nhìn hoa/ Chúc cho Xuân vui vẻ thái hòa/ Có một vài tóc trắng thầm mơ/ Ước cho hoa nở mãi không già”.

Lời ca như một bức họa tranh mà nét phác thảo đơn sơ của người nhạc sĩ về hoa xuân dành cho người họa sĩ đồng quê ngắt bông hoa tặng cô gái xuân, cạnh đấy là mấy đứa mục đồng ôm sách lẩm nhẩm đánh vần, những chữ i tờ mà chúng đọc được cũng như những cánh hoa đẹp để làm món quà đón xuân sang, đó cũng là hoa, là hoa lòng, là hoa tâm hồn của trẻ thơ khi biết đánh vần được chữ i chữ tờ. Quả thật, chỉ là những đóa hoa xuân bình thường, vì ở đây ông không đề cập đến hoa mai, hoa đào hay là một loài hoa nào khác, thế mà khi hát lên, ta vẫn thấy hương hoa bay man mác khắp nơi trong ngày xuân, nhẹ nhàng, dìu dặt, ru êm và sâu lắng. Không những thế, hình tượng hoa xuân trong lời ca như là phép màu để đưa người với người được gần nhau hơn, cùng quyến luyến với nhau hơn.

Những lời ca nốt nhạc trong khúc ca “Hoa Xuân” thật đẹp và giàu hình tượng. Và vì thế, mỗi khi mùa xuân về, trong ta âm hưởng của bài ca lại mênh mang tràn về: ... “Xuân! Hoa nở vì ai/ Tay nhịp bàn tay cùng đắp xây ngày mai/... / Xuân! Hoa là tình tôi/ Ðua nở cùng ai, cùng luyến yêu mọi nơi...”.  
NGUYỄN THỊ Ý
****

 Tôi đi tìm kho tàng của Phạm Duy - Quỳnh Lệ

(ấn vào hình để xem rõ hơn)



Fonts mới cho Bloggers!!!

Bạn,

Như bạn đang thấy "live" trên trang Hoctroviet, cách đây 3 ngày (1/20/2011) Blogger lại trình làng một sáng tạo mới của họ, là cho phép các trang mạng có thêm các font chữ mới, họ gọi là web fonts.



Làm cái này rất dễ. Bạn vào Design->Template Designer:

Xong rồi vào Advanced, và chọn các chỗ cho phép mình sửa như tên của blog, tên của widget, v.v. Thí dụ hình sau tôi đang thay đổi font ở  "tên của post", chữ đỏ.


Chúc bạn thành công!

Hoctro
1/23/2010

Thứ Bảy, 15 tháng 1, 2011

100 les plus belles chansons

Bạn, tôi gửi bạn món quà: gần 100 bài nhạc Pháp hay nhất, theo trang nhạc http://www.frmusique.ru/top100.htm . Trang này là nơi tôi hay lấy bài nhạc lời Pháp về để post lên blog này, vì chất lượng bài vở của họ rất cao, bài ít có lỗi chính tả. Hay thật, bên Nga mà cũng thích nhạc Pháp ... (Ấn vào tựa bài để nghe nhạc.)
  1. Jacques Brel - Ne me quitte pas
  2. Charles Trenet - La mer
  3. Barbara - L'aigle noir
  4. Edith Piaf - Hymne à l'amour
  5. Léo Ferré - Avec le temps
  6. Yves Montand - Les feuilles mortes
  7. Georges Brassens - Les copains d'abord
  8. Charles Aznavour - La bohème
  9. Georges Brassens - Chanson pour l'Auvergnat
  10. Céline Dion - Pour que tu m'aimes encore
  11. Yves Duteil - Prendre un enfant
  12. Jacques Brel - Quand on n'a que l'amour
  13. Claude François - Comme d'habitude
  14. Jacques Brel - Le plat pays
  15. Edith Piaf - La Vie En Rose
  16. Jean Ferrat - La montagne
  17. Jacques Dutronc - Il est cinq heures Paris s'eveille
  18. Yves Duteil - La langue de chez nous
  19. Beau Dommage - La complainte du phoque en Alaska
  20. Nino Ferrer - Le sud
  21. Michel Sardou - La maladie d'amour
  22. Edith Piaf - Milord
  23. Gilbert Bécaud - Nathalie
  24. Joe Dassin - L'été indien
  25. Serge Gainsbourg - La Javanaise
  26. Françis Cabrel - Petite Marie
  27. Francis Cabrel - L'encre de tes yeux
  28. Jacques Brel - Les vieux
  29. Claude Dubois - Le blues du businessman
  30. Edith Piaf - Non, Je ne regrette rien
  31. Léo Ferré - C'est extra
  32. Yves Duteil - Pour les enfants du monde entier
  33. Johnny Hallyday - Que je t'aime
  34. Fabienne Thibeault - Les uns contre les autres
  35. Jean Ferrat - Que serais-je sans toi?
  36. Francis Cabrel - Je l' aime à mourir
  37. Serge Gainsbourg - La chanson de Prévert
  38. Georges Brassens - Les amoureux des bancs publics
  39. Gainsbourg - Le poinçonneur des Lilas
  40. Joe Dassin - Les Champs-Elysées
  41. Laurent Voulzy - Belle-Île-En-Mer...
  42. Gérard Lenorman - La ballade des gens heureux
  43. Raymond Levesque - Quand les hommes vivront d'amour
  44. Alain Souchon - Foule sentimentale
  45. Edith Piaf - La foule
  46. Félix Leclerc - Le petit bonheur
  47. Daniel Guichard - Mon vieux
  48. Claude Léveillée - Frédéric
  49. Daniel Lavoie - Ils s'aiment
  50. Julien Clerc - Ma préférence
  51. Daniel Balavoine - l'Aziza
  52. Barbara - Ma plus belle histoire d'amour
  53. Hugues Aufray - Céline
  54. Charles Trenet - L'âme des poètes
  55. Maxime Le Forestier - San Francisco
  56. Lucienne Boyer - Parlez-moi d'amour
  57. Boris Vian- Le déserteur
  58. Gilles et les Compagnons - Les trois cloches
  59. Nino Ferrer - La Maison Près De La Fontaine
  60. Jean Ferrat - C'est beau la vie
  61. Françoise Hardy - Message personnel
  62. Félix Leclerc - L'hymne au printemps
  63. Tino Rossi - Petit Papa Noel
  64. Aline - Christophe
  65. Salvatore Adamo - Inch' Allah
  66. Gilbert Bécaud - Et maintenant
  67. Lucille Dumont - Le ciel se marie avec la mer
  68. Berthe Sylva - Les roses blanches
  69. Michel Fugain - Une belle histoire
  70. Julien Clerc - Femmes je vous aime
  71. Jean-Pierre Ferland - Je reviens chez nous
  72. Serge Gainsbourg - Je suis venu te dire
  73. Georges Moustaki - Il y avait un jardin
  74. Fabienne Thibeault - Ziggy
  75. Claude Nougaro - Tu verras
  76. Il était une fois - J'ai encore rêvé d'elle
  77. Eddy Mitchell - Couleur menthe à l'eau
  78. Maurane - Sur un prélude de Bach
  79. Pauline Julien - L'âme à la tendresse
  80. Mireille Mathieu - Mille colombes
  81. Johnny Hallyday - Quelque chose de Tennessee
  82. Serge Reggiani - Il suffirait de presque rien
  83. Jacques Brel - La quête
  84. Léo Ferré - Vingt ans
  85. Laurent Voulzy - Le coeur grenadine
  86. Félix Leclerc - Le tour de l'île
  87. Georges Dor - La Manic
  88. Charles Aznavour - La Mamma
  89. Charles Trenet - Y a d'la joie
  90. Pierre Perret - Lily
  91. Dick Annegarn - Bruxelles
  92. France Gall - Si maman si
  93. Charles Trenet - Douce France

Thứ Năm, 13 tháng 1, 2011

Duy Cường “phù thủy” hòa âm


Nguồn: Doanh Nhân Saigon Online

http://doanhnhansaigon.vn/online/van-hoa-nghe-thuat/chan-dung-nghe-si/2011/01/1051213/duy-cuong-phu-thuy-hoa-am/

KHÔI NGUYÊN

Là một người yêu nhạc cổ điển phương tây và cũng rất yêu nhạc Việt Nam nên trước đây lúc nào tôi cũng mong muốn có một ban nhạc chơi nhạc Việt Nam theo phong cách cổ điển. Hồi trước năm 1975, lúc đó tôi còn học tiểu học nhưng vẫn còn nhớ có ban Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng là ban nhạc chơi theo phong cách này. 

Duy Cường
Tuy nhiên tôi thấy ban nhạc này chơi đơn giản, không mấy sáng tạo nên không để lại ấn tượng nhiều trong tôi.Nhạc Việt Nam những năm 60 và 70 thật nhiều và thật hay nhưng ở thời điểm ấy và nhiều năm sau đó chưa được hòa âm hay tương xứng.

Về hợp âm thì các ban nhạc chỉ sử dụng các hợp âm trưởng, thứ, bảy, chưa biết sử dụng các hợp âm maj7, m7…. Về nhạc cụ thì nhạc cụ điện tử nghèo nàn, dàn violon quá yếu. Các khúc biến tấu, các khúc dạo đầu dạo giữa bài đơn giản và thiếu sáng tạo.

Vào khoảng năm 1987, qua một tiệm sang băng đĩa ở khu Tân Định tôi có được băng cassette sang từ 2 đĩa nhạc “Ngày xưa hoàng thị” - ca sĩ Thái Thanh, “Chiều về trên sông” – nhạc không lời, cả 2 đều do Duy Cường hòa âm. Nghe xong hai băng nhạc này tôi vô cùng bàng hoàng và thán phục phần hòa âm.
Ấn tượng đầu tiên là dàn violon quá mạnh và truyền cảm, (lúc đó tôi nghĩ là Duy Cường đã phải sử dụng các giàn nhạc giao hưởng cỡ lớn gồm toàn các ông bà tây tóc vàng mắt xanh nhưng sau này qua các bài phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy tôi mới biết là Duy Cường hoàn toàn sử dụng computer).

Duy Cường là một trong 8 người con của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy đó là: Duy Quang, Duy Minh, Duy Hùng, Duy Cường, Thái Hiền, Thái Hảo, Duy Đức và Thái Hạnh.
Lúc 15 tuổi, Cường tự học đàn bằng cách đợi bố đi làm, lấy chìa khóa mở đàn piano tập một mình. Lúc đó không có sách, không ai dạy. Phương pháp của Cường là nghe nhạc thật nhiều và lưu vào bộ nhớ để thuộc lòng, khi ngồi vào đàn, tập trung để nhớ lại và đánh lại. Một thời gian bố Cường phát hiện ra, bèn đưa chìa khóa đàn cho mẹ giữ. Rất may, mẹ thương Cường nên nịnh mẹ là lấy được chìa khóa. Cả thuở bé Cường đã học nhạc như vậy.
Phần hợp âm thì gồm những hợp âm rất lạ gắn bó thích hợp với từng đoạn nhạc như các nhạc sĩ cổ điển phương tây chứ không dựa vào những thế hợp âm có sẵn. Ví dụ như bài “Ngày xưa hoàng thị”, thay vì mở đầu phải đệm gam C với Do Mi Sol thì Duy Cường lại sử dụng hợp âm rải đều Sol Do Re Mi Re Mi nghe vừa là tại mà lại rất hợp với một bài thuộc loại ngũ cung như bài này.Chưa hết, nói về những đoạn dạo đầu, dạo giữa bài thì Duy Cường đúng là “phù thủy” qua sử dụng các biến tấu thật thần sầu như bài “Nửa hồn thương đau”. Tôi không biết Duy Cường có biết chơi ghi ta cổ điển không nhưng tôi thấy cách bài “Hai năm tình lận đận” thì giống như anh là một danh cầm ghi ta - sử dụng song tấu ghi ta phần đệm và phần giai điệu như quyện chặt vào nhau.

Có lẽ ai cũng đồng ý là bài “Chiều về trên sông” là một trong những bài hòa âm hay nhất của anh cho thấy anh là một nhạc sĩ hòa âm có tầm vóc lớn. Cũng cần phải nói thêm rằng tại thời điểm ấy (những năm 80), hòa âm còn rất đơn giản. Các ban nhạc chơi theo lối “trẻ” thường chỉ theo công thức có sẵn, về tiết điệu thì chơi theo điệu valse, tango…về hợp âm thường chơi các hợp âm đơn giản như trưởng, thứ, bảy… nhạc cụ điện tử thì cũ.

Tôi nhớ lại, không những tôi (một người chơi ghi ta tự học và nghiệp dư) mà ngay cả những ban nhạc chuyên nghiệp thời đó cũng không sao bắt chước lại những hợp âm “lạ” của can ban nhạc nước ngoài như The Capenters, Bee Gees… Các ban nhạc chơi theo lối cổ điển và bán cổ điển như dàn nhạc giao hưởng Việt Nam và đoàn ca múa nhân dân trung ương ở miền Bắc hòa âm khá đơn giản, chủ yếu là đánh theo giai điệu của bài hát mà thôi.

Chính vì vậy khi nghe những bài do Duy Cường hòa âm tôi xúc động vô cùng và xem đó như một vật quý giá (lúc đó tôi thường sang làm 2 băng casette, một băng để nghe, một băng để dành lỡ băng kia có bị rối, đứt thì cũng mất đi đoạn nào). Sau đó tôi còn may mắn được tiếp tục nghe rất nhiều dĩa nhạc do Duy Cường hòa âm.

Từ trái sang: Duy Cường, Duy Quang, Duy Minh.















Có khi tình cờ nghe được một bài hát ở quán cà phê hoặc nhà người quen tôi cũng nhận ra ngay là của Duy Cường hòa âm vì phong cách riêng của anh rất đậm nét. Duy Cường đã hòa âm rất nhiều bài, bài nào cũng hay cả nên có lẽ không thể bình luận hết tất cả những bài hát anh thực hiện.

Tóm lại, về tài năng hòa âm của Duy Cường có thể tóm tắt như sau:

1.Có thể nói, anh là người đầu tiên và cũng là người hay nhất đưa tân nhạc Việt Nam lên tầm cao mới qua lối hòa âm bán cổ điển. Nghệ thuật hòa âm của anh nổi rõ ở cách dùng hợp âm rất sáng tạo, cách dùng nhạc cụ rất tinh tế và hợp lý theo từng bài, các đoạn dạo đầu, dạo giữa bài, các câu vuốt đuôi theo bài hát thật “thần sầu” (tôi không phải là dân chơi nhạc chuyên nghiệp nên dùng từ không được chính xác lắm)

2. Anh là nhạc sĩ hòa âm có phong cách rất đậm nét, “phong cách Duy Cường”, nghe qua là đã biết bài này do Duy Cường hòa âm chứ không phải ai khác. Phong các này tôi thấy hình thành từ CD đầu tay của anh và không đổi cho đến giờ, gần bốn chục năm. Hiện nhạc sĩ Việt Nam ở trong và ngoài nước tôi chưa thấy ai đạt được điều này.

3. Anh là người có số lượng bài hòa âm vô cùng nhiều (với hơn 100 đĩa CD) trong đó phần lớn là hòa âm cho các danh ca như Thái Thanh, Ý Lan, Khánh Hà, Thái Hiền, Tuấn Ngọc, Duy Quang điều này nói lên tầm vóc lớn.

4. Chịu ảnh hưởng bởi Duy Cường nhiều nhạc sĩ trẻ ở trong nước cũng như ở hải ngoại đã chọn hòa âm theo lối bán cổ điển và đã ít nhiều thành công.

KHÔI NGUYÊN

Chủ Nhật, 9 tháng 1, 2011

Katy Perry - Hot N Cold

Bạn,

Từ khi tìm ra cách nghe nhạc với các ca sĩ đương thời như Katy Perry, Rihanna, Lady Antebellum, v.v. bằng cách vô Billboard tìm các bài hay trong tuần xong rồi đem về kiếm coi có video nào để nghe không, thì tôi bắt đầu thích nghe nhạc của Katy Perry.

Lần đầu xem cô trình diễn là trên Saturday Night Live, đã thấy thích vì phong cách rất sôi nổi, rất Mỹ của cô. Rồi tôi "got hooked" bài Hot N Cold (Nóng và Lạnh) vì thấy cách đặt lời hay quá,rất sát với giai điệu thật sôi nổi, mô tả được sự tương phản trong nhân vật nam (hay nữ) mà cô đề cập. Nghe nhạc này trên freeway thì khỏi sợ buồn ngủ, có khi còn vọt xe 80mph không chừng :-)))


"Em sôi nổi rồi em thờ ơ
em ừ rồi em không, 
em đồng ý rồi em lại đổi ý, 
em nhiệt tình rồi em chán nản ..."

Khoái cái câu  

"Ai làm ơn gọi bác sĩ giùm, 
ở đây đang có một người bị bịnh yêu lưỡng cực (love bipolar), 
bị mắc kẹt trong một roller coaster, 
không thoát nổi cái ride này."

Mới nghe chữ "love bipolar" lần đầu nên cũng không biết dịch sao nữa, theo như Katy mô tả thì đây là loại bịnh "dùng dằng nửa ở nửa về" :-)

Tôi đặc biệt thích cái style viết nhạc, rất nhát gừng, ít chữ như hot and cold, in and out, etc. điệu thì beat như Disco, không biết thời nay họ định danh cô thuộc về dòng nhạc nào? Wikipedia nói rõ hơn nhiều lắm về bài này. Như mấy ông bạn người Mỹ nói, khi tên mày mà lên được trên Wikipedia là mày thành công rồi đó a! (You know you made it when your name is on Wikipedia!)

http://en.wikipedia.org/wiki/Hot_N_Cold 

Bạn có thể xem các bài khác tôi đang sưu tầm nhạc Katy Perry ở đây:

http://hoctroyoutube2010.blogspot.com/2010/12/katy-perry.html

Thân mến,




Hot N Cold

Songwriters: Gottwald, Lukasz; Martin, Max; Perry, Katy;

We used to be just like twins, so in sync
The same energy now's a dead battery
Used to laugh 'bout nothing, now you're plain boring
I should know that you're not gonna change

'Cause you're hot and you're cold
You're yes and you're no
You're in and you're out
You're up and you're down


You're wrong when it's right
You're black and it's white
We fight, we break up
We kiss, we make up

You, you don't really wanna stay, no
But you, you don't really wanna go, oh

You're hot and you're cold
You're yes and you're no
You're in and you're out
You're up and you're down

Someone call the doctor
Got a case of a love bipolar
Stuck on a roller coaster
Can't get off this ride

You change your mind like a girl changes clothes

'Cause you're hot and you're cold
You're yes and you're no
You're in and you're out
You're up and you're down

You're wrong when it's right
You're black and it's white
We fight, we break up
We hug, we make up

You, you don't really wanna stay, no
But you, you don't really wanna go, oh

You're hot and you're cold
You're yes and you're no
You're in and you're out
You're up and you're down

Thứ Tư, 5 tháng 1, 2011

Tìm Hiểu về Bộ Não Con Người và Óc Sáng Tạo

Có bao giờ bạn đặt câu hỏi, trí nhớ (memory) từ đâu mà có hay không? Tại sao có người nhớ dai, người hay quên, v.v.? Rồi bịnh tự kỷ (autism) có liên can đến bộ não ra sao? Trong suốt năm vừa qua, người làm show phỏng vấn Charlie Rose đã cùng với khoa học gia Eric Kandel, người đoạt giải thưởng Nobel y học năm 2000, làm một loạt bài giới thiệu, phỏng vấn, trao đổi với các khoa học gia hàng đầu của phương Tây.

http://www.charlierose.com/view/collection/10702



 


Trong loạt bài ấy, hai người đã giới thiệu cho chúng ta bộ não hoạt động ra sao, từ lúc lọt lòng mẹ, tới khi già yếu và bị các căn bệnh về tuổi già như Parkinson, Alzheimer, v.v. Có 12 videos với các để tài như sau:
  1. The Great Mysteries of the Human Brain
  2. The Perceiving Brain
  3. The Acting Brain
  4. The Social Brain
  5. The Developing Brain
  6. The Aging Brain
  7. The Emotional and Vulnerable Brain
  8. The Anxious Brain
  9. The Mentally Ill Brain
  10. The Disordered Brain
  11. The Deciding Brain
  12. The Creative Brain
Riêng tôi rất thu hút bởi video sau cùng, nói về Óc Sáng Tạo của con người. Hai ông Rose và Kandel cũng đã bàn luận với hai nghệ sĩ tên tuổi của Hoa Kỳ là Chuck Close và Richard Sierra.

http://www.charlierose.com/view/interview/11264?sponsor_id=1

Video này cũng có transcript nữa, nên bạn cũng có thể đọc theo để nắm bắt nội dung nếu nghe sót.

Vài nét về Họa Sĩ Chuck Close

Chuck Close là một họa sĩ lớn của Hoa Kỳ, ông chụp mặt người thân, bạn bè của ông, rồi kẻ ô carô và vẽ lại theo cách của ông. Nghe qua thì giống như vẽ truyền thần, nhưng thực ra không phải vậy. Portrait ông chụp đã có tính nghệ thuật trong đó rồi, ông lại vẽ rất lớn, khuôn mặt nào cũng cao bằng hai ba lần chiều cao người thường, mỗi ô vuông nhỏ lại là một tiểu phẩm nghệ thuật. Người xem phải đi ra đi vào để tìm thấy mặt người trong các ô vuông đó. Ông bị hai thứ bịnh: không nhận dạng được mặt người, khi nhìn lần thứ hai người gặp trước, ông không biết họ là ai vì đã quên mặt rồi. Ông còn bị bịnh liệt từ năm 1990 thì phải, do đó ông vẽ rất khó khăn.


Một hình nhìn gần do Chuck Close vẽ

Có nhiều ý tưởng ông đề ra rất thú vị, tôi mới nghe lần đầu:

- Phải giới hạn môi trường làm việc cực kỳ tối thiểu, thì óc sáng tạo mới có cơ nảy nở. Trước kia ông không giới hạn, vẽ đủ thứ, từ khi ông quăng cọ và màu đi, chỉ vẽ trắng đen thì ông mới có nhiều ý tưởng lạ từ sự tự giới hạn.

- "Cảm hứng là danh từ dành cho dân nghiệp dư, bọn chúng tôi chỉ làm việc như nhên viên công chức, đều đặn hằng ngày." Ông nói, ông không thể chờ cảm hứng đến với ông, vì nó ít khi xảy ra, cũng như ta chờ sung rụng hay "sét đánh" (chữ của ông) vậy. Chỉ qua quá trình làm việc hằng ngày, giải những bài toán xảy ra trong khi vẽ, mới tạo kết quả.


Môi trường cho óc sáng tạo phát triển?

Ngồi chung quanh bàn tròn là những bộ óc rất thông minh, bày tỏ ý kiến, chia sẻ kinh nghiệm riêng của mình về câu hỏi, thế nào là óc sáng tạo. What is the creative mind?

Điều họ cùng đồng ý là phải có môi trường thích hợp để óc sáng tạo có cơ hội phát triển. Với hai nghệ sĩ Chuck Close và Richard Serra là do họ cùng lứa, học cùng trường Yale. Họ cũng lấy các thí dụ khác như các họa sĩ phái ấn tượng cuối thế kỷ 19, rồi thành phố thơ mộng Florence bên Ý thời Phục Hưng, v.v.

Điều này càng làm tôi thích thú vì rất đúng trong trường hợp của nhóm Beatles và ABBA, hai nhóm này rực sáng vì những thành viên làm việc cùng nhau, người này tương tác và xây dựng tiếp ý tưởng trên ý tưởng người kia, v.v. Khi họ rã đám thì ta cũng thấy kết quả làm việc riêng của họ - các bài hát - cũng kém chất lượng hẳn đi.

Ai cũng có óc sáng tạo

Các tác giả đồng ý là ai cũng có óc sáng tạo hết, chẳng phải chi có nghệ sĩ mới có. Điều này làm tôi rất thích thú vì nó giải thích được tại sao tôi chọn nghề của mình là một lập trình viên.. Tôi khoái viết programming. Tôi có ước muốn tự thân muốn tự động hóa các công việc nhàm chán thường ngày, làm chúng nhanh hơn. Viết mà không cần nhận thưởng, vì phần thưởng lớn nhất là những "ah-ha" nho nhỏ khi làm thành công một bước nhỏ trong một bước lớn, hay những trăn trở tìm cách giải khi bị bế tắc, v.v. Hai nghệ nhân trong video cũng nói, đại loại là tôi không thức dậy hôm nay và nói là mình sẽ sáng tạo một điều mới, mà chỉ đơn thuần là làm việc tiếp để tiếp tục giải bài toán ngày hôm qua chưa làm xong, cứ như thế, như thế ...

Đối chiếu với kinh nghiệm bản thân

Họa sĩ Chuck Close có nói trong video là:

I think problem solving is not the issue.  I think that’s a problem creation.  What we did was try and find a way to ask questions of ourselves that no one else’s answers would fit, and then the search was on.  

Tôi tạm dịch:

Tôi nghĩ giải quyết bài toán không phải là điều đáng bàn ở đây. Tôi lại nghĩ đó là việc tạo ra bài toán. Việc chúng tôi làm là tìm kiếm và tìm ra cách thức đặt vấn đề cho chúng tôi, mà người khác không có lời giải hoặc không phù hợp, thế là chúng tôi lao vào tìm kiếm.

Điều ông ấy đặt ra là thế này. Ổng rất ngưỡng mộ các thế hệ đàn anh đi trước, trong khi đang là sinh viên ông ta vẽ theo rất nhiều. Ông ta còn giỡn là ông ta vẽ tranh theo trường phái De Kooning còn nhiều hơn chính De Kooning vẽ nữa. Thế nhưng ông ta không muốn chỉ là một tên thợ vẽ, không có sáng tạo, chỉ theo lối mòn người đi trước đã khai phá. Vậy nên một ngày đẹp trời, ông ta quăng hết cọ đi và cả những thỏi màu, và chỉ vẽ bằng đen trắng, cũng như tìm ra lối vẽ phóng lớn từ ảnh nhưng đầy tính nghệ thuật, cũng rất phù hợp với căn bệnh "không nhớ mặt người" của ông.

Suy nghĩ nhiều về video đó, tôi thấy con đường làm web của tôi cũng hệt như vậy. Không muốn chỉ là một member của một forum, cũng không muốn tốn tiền mua web server và có trang nhà riêng, năm 2006 tôi thử đi vào con đường "blogging" của hãng Google. Kết quả rất mỹ mãn, vì tôi có trang nhà riêng, lại tha hồ được áp dụng các kỹ thuật đã được học ở đại học để ứng dụng vào viết web với JavaScript.

Thế rồi cách đây hơn một năm tôi nảy ra ý muốn thu nhặt các YouTube videos xa xưa, mà các nhạc sĩ Việt Nam đã bỏ công khó ra dịch lời Việt, rồi đem về ráp chúng vào để nghe. Từ từ tôi tìm luôn cả 20, 30 videos rồi cho vào chung một trang. Việc này rất dễ, chỉ cần cut-and-paste nhiều lần, nhưng cái dở là trang dài lắm. Thế là tôi "tạo ra bài toán" (problem creation) cho riêng mình - như họa sị Chuck Close đã mô tả - là tạo ra nhiều links mà chỉ cần một cửa sổ YouTube, để tiết kiệm chỗ cũng như thời gian. Khó khăn thì nhiều, nhưng kết quả rất khả quan. Tôi đang làm một trang có rất nhiều bản nhạc xưa nay của Pháp, Mỹ, có bao nhiêu links cũng được. Đặc biệt vì tính tôi rất lười, nên tôi cũng không muốn phải chọn bài khi vào một trang mới nữa, nên tôi chế ra để máy chạy tự động hết từ bài này sang bài khác. Trang đó ở đây:

http://hoctroyoutube2010.blogspot.com/



Tôi nghiệm thấy tôi làm hệt theo cách Chuck Close mô tả: "Cảm hứng là danh từ dành cho dân nghiệp dư, bọn chúng tôi chỉ làm việc như nhên viên công chức, đều đặn hằng ngày." Chỉ có qua suy nghĩ về một trang có YouTube, rồi chăm chỉ hằng ngày viết mã để hoàn thiện tính năng và thêm các tính năng mới, mà cuối cùng tôi đã có một sản phẩm rất đặc trưng (unique) bảo đảm chưa ai nghĩ ra trên mạng lưới toàn cầu, kể cả dân Anh hay Mỹ. Đặc biệt ở chỗ khi thích bài nào thì ấn vào bài đó, danh sách bài rất dễ đọc và nhiều. Còn nếu không thích thì cứ để tự đông cho máy phát nhạc và làm việc khác. Thí dụ như tôi mở trang Paul Mauriat  ( http://hoctroyoutube2010.blogspot.com/2010/12/paul-mauriat.html ) ra nghe là tôi có thể vừa làm việc khác cả ngày vừa enjoy nhạc.

Bài viết đã dài. Hy vọng bạn không bị nhàm và nhất là suy nghĩ về những sáng tạo riêng bạn để thấy chúng ta có cùng mẫu số chung là óc sáng tạo và lòng ham mê tìm tòi. Mong bạn sẽ có thì giờ xem hết video Óc sáng tạo này và trọn bộ còn lại.

Thân mến

Học trò
http://hoctroviet.blogspot.com

Thứ Ba, 4 tháng 1, 2011

Phạm Duy: Tình yêu tự do

Tác giả : Vô Danh

Năm 1951, trên đài phát thanh Sài Gòn, trong một chương trình mà người dẫn là nhà văn Nguyễn Đình Toàn, Phạm Duy đã trả lời về ý nghĩa của tác phẩm của mình. Đối với ông, cuộc đời ông có ba điều quan trọng: tình yêu, nỗi đau và cái chết[1]. Trong hơn nửa thế kỷ, Phạm Duy vẫn luôn trung thành với khẩu hiệu này, ông dùng tình yêu để hâm nóng hai thứ còn lại, nỗi đau về nơi chôn nhau cắt rốn và sự biến mất của thân xác đang đến gần, dù không bao giờ khước từ tự do cá nhân. 

Sự biến đổi của các định nghĩa của nhạc sĩ về tự do khiến chúng ta quan tâm bởi nó liên hệ máu thịt với lịch sử Việt Nam đương đại và tầm vóc lịch sử càng lớn hơn khi âm nhạc của ông có ảnh hưởng quốc gia. Vị thế xã hội trung tâm của ông dịch chuyển giữa việc làm chứng trực tiếp và việc tiếp nhận tác phẩm của ông từ phía người dân, đồng thời, vị thế đó trở thành một cách định danh tập thể trước ẩn số và sự tàn khốc của cuộc chiến. 

Là một nhạc sĩ có tầm cỡ với đầu óc cởi mở Phạm Duy nhận thức mình là một « sự kiện quốc gia », sáng tác và quan điểm của ông có tầm ảnh hưởng rất lớn trong đời sống xã hội và  nghệ thuật của đất nước. Trong bài hát Những điều tôi biết trong đời tôi, ông tự do thể hiện để đúc kết nên một hiểu biết tập thể về những ngờ vực của riêng ông về cuộc sống và về xã hội loài người :

...Ai biết ai thương người suốt một đời? …
Tôi biết cớ sao người ghét người hoài …
Không ai yêu ai, nên không ai vui …
Tôi hát câu ca, câu ca yêu đời

Bằng cách thắp lên ngọn đèn tình yêu như là niềm hy vọng trong đêm tối chiến tranh và bằng cách hát lên giai điệu tình yêu nơi giao nhau của một thế giới trong đó con người đã cảm thấy ghê tởm đối với chính con người, Phạm Duy đi theo hướng của Sartre: “Con người về cơ bản là khát khao tồn tại”[2], chủ nghĩa hiện sinh trong cách nói này : “Khát khao là sự thiếu”. Hy vọng cũng chính là sự thiếu, giữa sự không biết và sự chờ đợi. 

Tình yêu tự do trước thử thách tàn khốc của lịch sử thỉnh thoảng cho phép Phạm Duy cảm thấy ghê tởm trước những trắc ẩn của con người. Trong chiến tranh chống Mỹ tại Việt Nam, vào năm 1970, vào đêm Noel, ông đứng trên một trong những cái tháp cao nhất New York. Phía dưới kia, trong phố xá đông người, người Mỹ đang vui vẻ bận bịu việc mua sắm cho dịp Giáng Sinh, trong phòng của ông ở khách sạn, trên trang nhất một tờ báo : lính Mỹ thảm sát làng Mỹ Lai ở miền Trung Việt Nam. Trong đầu ông tái hiện ngay tức thì hình ảnh của Bà mẹ Gio Linh : bà đang ra chợ để tìm lại đầu của đứa con trai bị lính Pháp xử trảm hơn ba mươi năm trước. Chuyện lại xảy ra bất ngờ và bi kịch với cùng một nạn nhân: người dân nước ông. Trong bài hát Kể chuyện đi xa,  ông khẳng định một trong những quyền tự do của con người là tự vấn về nên văn minh và nhất là hoài nghi về cái người ta gọi là tiến bộ :

 … Ôi ! Mỹ Lai thành quà tặng No-en, cho những thiên đường của từng con em trong những gia đình gọi là văn minh …

Với sự tự do này, Phạm Duy lục lọi trong tâm trí để tìm ra những nỗi lo, những nỗi lo này, thật lạ, sẽ mang lại cho ông sức mạnh để gặp gỡ đất nước  mình một cách khác, với một cái nhìn từ phía ngoài, đồng thời chấp nhận rằng ông không còn ảo tưởng về thế giới (bên ngoài) nữa, thế giới này không biết gì về sự hấp hối của cả dân tộc :

Đất nước hai miền chật chội oan khiên …
Thế giới âm thầm, thủ phạm lâu năm …

Chúng ta nhớ rằng Spinova đi khá xa trong việc định nghĩa niềm hy vọng. Theo ông, hy vọng không phải là gì khác ngoài sự lo âu, thậm chí là sự bất lực, người ta hy vọng thứ mà người ta không có, thứ mà người ta không biết, thứ mà người ta không thể đạt tới.[3]  

Vào đúng thời kỳ đó, giữa chiến tranh liên miên và sự cô độc muôn trùng của con người cá nhân, tình yêu tự do trong hành trình của Phạm Duy được thể hiện trong động từ ra đi. Ra đi có nghĩa là rời bỏ, tự do ra đi – rời bỏ hàm nghĩa tự do khao khát tự do, chúng ta hãy còn nhớ khẩu hiệu nhân học của Lévi-Strauss : « Người hãy rời bỏ mẹ cha và mang cái khuôn vàng thước ngọc cho xã hội”[4]

Thế nhưng, cách nhìn riêng của Phạm Duy còn có vẻ khó nắm bắt trong logic của cuộc chiến thời đó, nơi mà sự lưu đày nội tại trong cái nhìn của ông về những cảnh tượng ghê tởm của chết chóc sớm hay muộn sẽ đưa ông tới cảnh lưu đày trong đất nước, từ nơi này sang nơi khác. Sự lưu đày này làm nảy sinh sự bó buộc chung, đó là xét lại toàn diện số phận của đất nước, phải tạo ra những vận động mới, những di chuyển chưa bao giờ thấy trên mảnh đất quả là đã bị tàn phá nhưng sẵn sàng đổi mới, hồi sinh. Trong sự vận động muôn thủa vì cuộc sống, tự do cho chúng ta ngộ ra rằng không ai sở hữu ai, vì sự tự do thực sự rất ghê tởm sự chiếm hữu. 

Năm 1970, Phạm Duy sáng tác ba trường ca xoay quanh một từ khóa : hành (sự di chuyển), kể về sự chuyển động không ngừng. Bài hát thứ nhất tên là Lữ hành miêu tả cuộc sống như một sự khởi hành được tái diễn vô cùng; Bài hát thứ hai, Xuân hành, xem xét bước đi chật chội và yếu ớt trọng cuộc đời con người đối diện với sự mênh mông của đất nước. Và bài hát thứ ba, Dạ hành, cho thấy cái nhìn của nhạc sĩ về những con đường bấp bênh mà dân tộc đã trải qua giữa chế độ quân sự thối nát của miền Nam và chế độ độc tài của miền Bắc, nơi mà mỗi người Việt phải khẳng định sự tự do của mình để tồn tại:

Người đi trong đêm tối, trong đêm thâu…
Người đi không dắt, không ai đưa…
Như đui mắt, như bơ vơ…
Đi trong vòng quanh quanh của bầy ma…

Cuộc sống có sự vận động thì sự sống còn sẽ khả thi. Có ra đi, là có niềm vui. Đó là công thức của Phạm Duy, ông giải thích rằng lần nào cũng có niềm vui vì có khát khao vận động.Ngọn nguồn của tự do và kết quả logic của hành động, khát khao ra đi làm tan biến nỗi sợ về cái chết, thiếu tự do giày vò lòng người. Nếu có sự vận động thì sẽ có niềm vui hành động, niềm hạnh phúc được đi lại từ đầu. Deleuze không nhầm khi đưa ra giả thuyết rằng những chế độ độc tài không sợ trật tự cũng như không sợ luân lý, các chế độ này sợ nhất là sự vận động, sự vận động không thể kiểm soát. Sự vận động chính là sự ra đời của một cuộc sống mới, trong quyết tâm giành quyền được sống ; Phạm Duy hoàn toàn sở hữu niềm tự do tin tưởng vào sự vận động ; cuối bài hát, ông đưa vào ánh sáng một điều hiển nhiên, tạo một sự chuyển động mới cho đất nước :

Người đi tìm ánh sáng mặt trời …
Người đi tìm ánh sáng trời lên …

Nhận định kép : sự tìm kiếm ánh sáng mặt trời là sự tìm kiếm chân lý, và sự tìm kiếm ánh sáng trên trời cao phải là sự tìm kiếm sự tự do vô biên, vô cùng. Sự thiếu tự do theo Phạm Duy phải được bù đắp bằng âm nhạc, sáng tạo mách bảo với nhạc sĩ rằng ông phải thoát ra khỏ thiếu thốn tiên liệu đó. Khi sáng tác âm nhạc với niềm vui thú xóa bỏ sự thiếu thốn, ca từ mỗi khi hòa với âm nhạc sẽ vạch ra một hướng đi mới, nơi mà mỗi sự vận động mới tạo nên một nhãn quan mới, mặc dù thế, mỗi sự dịch chuyển đều nhắm đến một nơi nào đó. 

Trong những năm tháng chiến tranh liên miên, sự dịch chuyển mới của trí tưởng tượng mang lại cho nhạc sĩ quyền được đi lại từ đầu trong lịch sử dân tộc (một lịch sử lặng lẽ), trong quá khứ  của tuổi thơ (một quá khứ êm đềm), trong hoài niệm về những cuộc tình (những hoài niệm vững bền).Việc đặt sự tự do « trên hết tất thảy » cho phép nhạc sĩ tạo ra sứ mạnh hòa hợp giai đoạn khởi đầu này, giai đoạn xét về con người có thể sống được và có thể bảo vệ những ước mơ đời thường. Trong bài hát Kỷ niệm sáng tác năm 1966, đi lại từ đầu trở thành cho đi lại từ đầu như hành động đảm nhiệm việc gì đó với những người thân khác, vì người ta không thể sống một mình :

… Cho đi lại từ đầu, chưa đi vội về sau,
Xin đi từ thơ ấu đi, vui và bên nhau…

Niềm khát khao tự do như vậy nằm ở trong sức mạnh sáng tạo và tái sáng tạo, và tác phẩm của Phạm Duy nói lên rằng niềm khát khao tự do không phải là gì khác mà là sức mạnh tồn tại trong sức sống, sức mạnh này biết cách đi xa trong hoài niệm. Vì vậy không được quy giảm khát khao này thành sự thiếu thốn, như vậy là lấy hậu quả làm nguyên nhân, hạ nguồn thành thượng nguồn, bởi vì khát khao tự do phải là sức mạnh đầu tiên của tình yêu, mà tình yêu là thứ đưa đường chỉ lối cho nhạc sĩ và không để cho anh ta làm đảo lộn logic sự kiện của lịch sử. Sự thiếu thốn không giải thích hoàn toàn bản chất của khát khao như là điều kiện tiên quyết của tự do, nhưng đúng hơn, phải nhìn trong sự hòa hợp giữa sáng tạo và tự do : một  sức mạnh kích thích khát khao bằng cách đào sâu vào ngọn nguồn của lời nói, để tạo nên sự rõ ràng của tự do. 

Trong loạt bài Bé ca, nhạc sĩ tự cho mình quyền tự do (tái sáng tạo), vừa nở rộ vừa trang trọng, tái nhập những giai điệu truyền thống và dân gian bằng cách minh họa thứ âm nhạc dành cho trẻ thơ. Thế nên, trong những năm 1970, sự rõ ràng trong âm nhạc Việt Nam xuất hiện trong sức sống trầm lặng trước những loại âm nhạc nhập khẩu từ phương Tây tràn ngập âm nhạc Việt Nam đương đại. Trong bài hát Ông trăng xuống chơi, Phạm Duy tổ tái tạo di sản dân ca trong vẻ đẹp của những hình ảnh tạo nên mối liên hệ giữa các yếu tố thiên nhiên nơi mà trẻ thơ đang sống hạnh phúc, và mối liên hệ này sẽ tạo nên sự đón tiếp nồng hậu nhất trên vầng trăng. 

Trong các bài hát khác, nhạc sĩ nhấn mạnh sự cần thiết phải tẩy chay sự mặc cả, thậm chí sự thương lượng trong việc giáo dục trẻ em bằng cách tăng cường tình bằng hữu và sự tương  thân tương ái trong một thời đại mà đạo đức xuống cấp. Đó là chưa kể việc định danh âm nhạc dựa vào tiếng cười hạnh phúc của trẻ thơ, với biểu tượng những con chim sẻ an bình trên cành yêu thương. Đó là kết luận mà nhạc sĩ đưa ra cho bài hát cuối cùng trong loạt bài đó :

 Một con chim nhỏ trên cành yêu thương

Nhưng năm 1975 đang đến, thời khắc thay đổi chế độ với phần thắng thuộc về cộng sản và phần thua thuộc về miền Nam theo chủ nghĩa quốc gia, đó cũng là sự thay đổi trong cuộc đời nhạc sĩ, khiến nhạc sĩ phải lưu vong tại Mỹ. Sự lưu vong của ông là một hành động cụ thể, đó là tìm kiếm tự do, nhưng với cái giá nào phải trả 



Nhạc sĩ nhận ra rằng cái giá phải trả là rất đắt, từ một nhạc sĩ dân tộc ông trở thành một người nhập cư bình thường. Trong Tị nạn ca, ông kể lại cú sốc và sự kiệt quệ của sự lưu vong, ông đào sâu suy nghĩ về logic của sự mất mát : Khi mất nước, người ta mất dân tộc ; khi mất người hâm mộ, người ta có nguy cơ đánh mất âm nhạc của mình. 

Cái giá cho sự tự do lưu đày, ông bắt đầu phải trả trong trại tị nạn Eglin tại Florida nơi ông trả lời trong một bài tiếng phỏng vấn bằng tiếng Anh : « Tôi luôn hát về đất nước, nhưng bây giờ đất nước tôi ở đâu ? ». Mất nước trở thành một sự lang thang gần như trong cơn hấp hối, trong bài hát Nguyên vẹn hình hài, ông đã nói về cái chết của chính mình : 

Nơi tha ma mở nắp mồ lên
Sẽ thấy một người nằm thanh thản
Trông như chân dung của Việt Nam.
 
Trong cùng bài hát đó, có mt thông đip l :

(…Cho tôi khôn trưc ngày đu thai…)

Khát khao t do và s lang thang tiếp ni đt con ngưi cá nhân trong mt s căng thng mà ông gi là s thư giãn trong sáng to. Trong suy nghĩ ca nhc sĩ, s căng thng có th là mt sc mnh sau khi nhn thc hết s mt mát. Thế nên, Phm Duy xem s căng thng này như ngn ngun tái sinh ch không phi là sc chế, ông xem s lưu vong như mt kinh nghim sáng tác mi. Và nếu sc mnh sáng to đến hn, s tn vong s chân tri, rõ ràng, có thc. đây và bây gi mt mát, ngày mai, quá trình đu thai s vun đy nhng cái nhìn khác v thế gii bên ngoài đ nhìn nhn đt nưc mt cách khác, đ nhìn nghip ca chính mình mt cách khác. Nhưng có th thng mt ngày mai đen ti và xa quê hương ? Có ! Nh khát khao t do, mt nim khát khao biết cách sáng tác âm nhc. 

Cui cùng, ngay sau đó, nhc sĩ sáng tác tiếp bài Hát trên đưng vưt biên năm 1978 trưc s lưu vongt ca các thuyn nhân Vit Nam. Đng bào ông, t lâu, sng ven bin mà không thy bin và không h có kinh nghim đi bin, h b chết đui ngoài khơi, biến Thái Bình Dương thành nghĩa trang khng l dành cho nhng k chy trn. Mc du vy, thông đip ca Phm Duy đi theo hưng mt con đưng m ra s sng, đây, t do là nim vui :

…Đi tìm l sng trong tri đt…
Mt đoàn ngưi đi tìm t do…
Đến chia vui vi ngưi
 
Trong sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy, khái niệm niềm vui của con người vẫn luôn « thú vị » hơn bởi nó tác động mạnh mẽ hơn niềm vui có quyền con người. Trong niềm vui, người ta thấy tình yêu sắp đến, trong quyền, nếu yếu, người ta sẽ mất hút trong chứng cứ pháp lý và sự thương hại mà không làm chủ được sự lưu vong của chính mình. Suốt đời, Phạm Duy không ngần ngại phổ nhạc tình là niềm vui, luôn luôn rạng ngời, nghênh đón, mời gọi tự do. Ánh sáng này phải được công nhận như là chân lý, chân lý đầu tiên và dễ nắm bắt. 

Trong loạt bài Tị nạn ca, bài hát Hát trên đường tạm dung,  trong tuyệt vọng, ông tìm cách tạo ra cuộc đối thoại với tượng tự do mà không thành, mặc dù thế, ông vẫn luôn giữ nguyên vẹn tình yêu trong độc thoại :

…Nàng lên tiếng nói : tự do bác ái ! Cho đẹp lòng tôi, thế giới cũng vui …

Phạm Duy biết bây giờ ông là kẻ cô đơn, ông không chia sẻ sự tự do của mình với ai và sáng tác của ông đi vào độc thoại, thường chỉ có mất, người Việt Nam gọi đó là mất trắng ; trong lòng ông, ông thấy rõ những kẻ tị nạn bị mất mạng trên biển khơi sau 1975. Ông biết cái giá của tự do nhưng ông cũng biết rằng không có tự do, cuộc đời sẽ chỉ là lầm lạc. Khái niệm lầm lạc có tác động cực mạnh đối với thế hệ hai lần lưu vong, vào năm 1954 với sự di dân từ Bắc vào Nam sau khi, chế độ Cộng sản được thiết lập, rồi vào năm 1975 với việc người dân sang sống lưu vong ở các nước phương Tây.

Với thân phận lưu vong, ông thỏa sức suy tư về tiên đoán của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, bạn của ông :

Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh…

Và mất mát lẫn với hư vô :

…Chúng ta mất hết chỉ còn nhau

Nhìn chung, thế hệ này không gào lên như Gide : « Gia đình, ta thù ghét gia đình !Những tổ ấm khép kín ; nơi chế ngự hạnh phúc một cách đố kỵ »[5], bởi vấn đề của ông có vẻ nghiêm trọng hơn trong  bối cảnh chiến tranh tiếp nối chiến tranh do chịu ảnh hưởng của các ý thức hệ nước ngoài. 

Phạm Duy và bạn bè của ông thực sự sống trong khiếm khuyết hóa kiếp, chủ đề quan trọng của Phật giáo và đã ăn sâu trong tín ngưỡng của người Việt Nam, người dân đất nước này thường tự diễn giải nỗi đau khổ của chính mình. Khước từ gia đình cũng vô ích, bị đuổi khỏi đất nước là một điều không may mắn cho sự hồi sinh. Khi phổ nhạc bài thơ này của Vũ Hoàng Chương, ông cho người nghe thấy sự bế tắc của mình, sự phù du của cuộc đời mình :

Tôi xa quê hương như con sâu kẹt lối,
 Non nước tuyệt vời đã đổi màu da …

Preud cho rng tình yêu ch là tình  yêu chuyn ti, đưc nhn trưc khi đưc cho, hnh phúc đưc yêu có trưc hnh phúc yêu và chun b cho hnh phúc yêu, và kết qu ca quá trình chun b này là gia đình. Ngưi Vit Nam vn thm nhun văn hóa nho giáo tin rng dân tc là mt đi gia đình và đt nưc là mt ngôi nhà ln. Đúng thế, t chn lưu vong, Phm Duy mun t b cái nhìn này v gia đình đ đào sâu hơn như ông nói Nhng nét bun ca trùng dương, ca vũ tr ,[6] làm toát lên mt đnh nghĩa khác v s t do nhìn t chn lưu vong, và khi đu t bi kch ca các đng bào t nn trong cnh lp b vá tri :

…Bng nim tin lp bin su thương…
Sng đưc trong đi,
Hy vng còn nuôi, nuôi mãi tin yêu…

Trong tình yêu có tất cả những gì ông khao khát bởi ông chỉ muốn những gì có thật, những gì ông có thể hưởng thụ hoặc mang lại cho ông vui sướng. Hưởng thụ cuộc đời, hưởng thụ sự hiện diện. Hạnh phúc, theo Platon, đó chẳng qua là có những gì mình muốn.[7]. Vậy nhưng Phạm Duy không chỉ hy vọng những gì ông không có : niềm hy vọng được thú nhận, giữa thiếu thốn và phi thực. Việc lưu vong trở nên ngột ngạt hơn vì nó đi  ngược lại hy vọng : đó là ác mộng của những đêm quy giảm cuộc đời lang thang thành hư vô. Trong bài hát Giấc mơ khủng khiếp, từ nước Mỹ, ông thấy sự biến đổi ác mộng của dân tộc nô lệ trong một đất nước trống rỗng, không sự sống, và trong nhạc của ông có sự kinh hoàng :

…Xin cho tôi đừng ngủ nữa,
Xin thôi không nằm mộng du…

Tình yêu là khát khao, khát khao là bản chất của người đàn ông tự do ; vậy nhưng tự do thường được xác định bởi sự thiếu tự do và mối liên hệ giữa chúng được thiết lập từ những thử thách trong cuộc sống trong sự đối sánh. Giai đoạn lưu vọng giúp Phạm Duy xem xét kỹ hơn vòng luẩn quẩn bi kịch của đồng bào đang ở lại đất nước, đang sống trong cảnh hòa bình khó có thể chấp nhận, trong một chế độ độc tài, các trại tập trung được nhân rộng, những người phụ nữ sống trong cảnh không chồng rất nhiều. Trong bài hát Trả lại chồng tôi, năm 1983, Phạm Duy gợi lại vấn đề xung khắc giữa đồng bào với nhau. Lần này, nhìn từ chốn lưu vong, đó là sự không hiểu nhau vĩnh viễn :

…Cùng là anh em, hai miền ruột thịt,
Sao n bt đem đi đày xa?

Quan h rut-tht vn là nn tng cơ bn ca các mi quan h gia đình đi vi ngưi dân Vit Nam bi vì đó là nn tng ca nim tin ca con ngưi có cùng t cht sinh hc và có cùng quan h huyết thng, t  tc th cúng t tiên đến nhau thai t mt ngưi m. Tm quan trng nhân hc ca hìnhnh này mang tính kép : Đng bào Vit Nam xut thân t mt gia tc trong đó đoàn kết to nên phn x, tương thân tương ái rèn rũa s t đn ; s hn thù tr nên khó hiu và s giết chóc là không th th tha. 

Nhng bài hát tiếp theo trong giai đon ngưi dân Vit di cư hàng lot sang phương Tây, Phm Duy tiếp tc tôn vinh hìnhnh ca nhng ngưi ph n Vit Nam, h phi chu cnh mt mát đau thương trong mt đt nưc hòa bình, trong khi thc tế có nhng ngưi v mt chng trong các tri tp trung hay xa khơi, bin hung d vi nhng tên cưp tn công nhng k chy trn và hãm hiếp ph n

Đưc t do M, Phm Duy tiếp tc suy tư v s thiếu thn t do trong đt nưc ; ông ph nhc các bái hát ca Nguyn Chí Thin trong lot bài Ngc ca, ca Hoàng Cm trong Hòang Cm ca. Vì vy, ông tr thành ngưi làm trung gian gia hai nhà thơ ly khai b chế đô trong nưc trn áp mnh tay này và đng bào ôngc ngoài b mt thông tin hoàn toàn v bn cht ca chế đ. Là ngưi biết đy đ thông tin v đt nưc và nht là con chim đu đàn ca nn âm nhc dân tc b lưu vong và thoát khi mi ý thc h, Phm Duy đm nhim v thế đó, bt chp hay d

Bên cnh nhng bài hát phn ánh tâm hn ca ngưi Vit lưu vong, đng bào ông đôi khi ngc nhiên v quan đim chng cng ca ông, kèm theo đó là hot đng thương mi trong vic ph biến âm nhc ca mình gia châu M và Châu Âu. S tn vong gia chiến tranh và t nn dy cho ông cách làm ch âm nhc, t khâu sáng tác đến khâu ph biến. Ông có th b xem là có li hay th phm trong bi cnh b cô lp, lưu vong nơi mà truyn thông phương Tây không dành ch nào cho âm nhc Vit Nam ? 

C cho là như vy. Nhưng tình yêu ông là s t b. Ngưi ta yếu vì chưng ngưi ta mnh. Ngưi ta nh bé vì chưng ngưi ta biết mình có th bay cao, bay xa. Lưu vongc ngoài, ông chng kiến s sp đ ca bc tưng Berlin và s sp đ này kéo theo s biến mt t t ca phe cng sn Đông Âu. 

Ông tái khng đnh đnh nghĩa v s t do ca mình bng cách gi lên s ct cánh nh nhàng ca ngưi Vit lưu vong phương Tây trong lot bài By chim b x, nhng con chim mơ đưc tr v quê hương. Đưc sáng tác t năm 1975 đến năm 1985, lot bài này cho thy nhng hìnhnh ca nhng con chim bay xa đ k rõ hơn v lch s, văn hóa và bi kch lưu vong ca đng bào. Giai điu dân ca kết hp nhun nhuyn vi các nhc c hin đi, to nên s quyn ln trong cách k chuyn, cho phép nhc sĩ viết (li) lch s đt nưc t nim khát khao t do, hoàn toàn t do và nh bng như nhng con chim ct cánh bay, tt c vì nim tin :

T do là tiếng loài chim.

Sự tự do nhỏ nhoi, là biết mình biết bay, vượt qua mọi trở ngại bởi chân lý của chế độ chính trị chỉ có một vị trí khiêm tốn trong chuyến bay của tất cả mọi con người trên toàn thế giới. Tình yêu tự do mang tính tự phát nhưng nó in đậm trong một ý tưởng nảo đó về nhân loại, trong đó con người bị ràng buộc vào mối tình đồng loại theo thiên hướng tự nhiên của min hf. Đó là một định nghĩa khác về tình yêu bao dung. Ở đây, lợi ích nhân học được tìm thấy trong loạt bài gồm 16 chương đưa ra những lý giải rõ ràng. Thế nên, nhà nhân học có thể quan sát, nghe thấy cội nguồn văn hóa của Phạm Duy, nhất là hiểu biết của ông về văn hóa dân gian. Chương thứ nhất có tên Bầy chim buồn bã (La troupe d’oiseaux tristes) có những câu:

Bầy chim buồn bã,
Rủ nhau trốn quê hương …
Để lê kiếp tha phương …

Chương thứ hai Chim Quyên từ độ bỏ thôn đoài miêu tả tượng trưng các hệ tư tưởng nước ngoài tạo nên những chế độ độc tài theo kiểu những kẻ tham lam theo chủ nghĩa cơ hội, lý do lưu vong của đồng bào ông. Lạ tính đi đôi với sự ngạc nhiên, sự bất chợt đi đôi với sự kinh hoàng của người dân trên đường chạy trốn :

…Thì bỗng đâu có loài ác điểu
Thừa cơ làm chủ lũ chim yêu…

Chương ba có tên Bầy chim bé nhỏ phác thảo một thế giới trong đó những kẻ thống trị đè bẹp một cách tàn bạo những kẻ bị trị :

Loài ưng loài ó, nào dung lũ chim non …

Những kẻ bị trị yếu được coi là nhỏ nhoi trong văn hóa Việt : ít hơi, ngắn tiếng. Đó là số phận bi thương của người dân tị nạn. Thêm lần nữa, nhạc sĩ đứng về phe nước mắt và máu của nạn nhân, ông chia sẻ số phận hẩm hiu của con chim chào mào : 

…Con chim chào mào líu lưỡi ngọng câm…

Trong chương 5 có tên Chim bay t đng lúa phương Nam, Phm Duy thy rõ hơn cai nghip gia con ngưi và loài chim :

…Chim bay xa thương cây nh ci, ngưi xa ngưi ti lm ai ơi…

Ca t này đưc rút ra t mt bài dân ca, mt ln na đưc Phm Duy hà thêm sc mnh nh âm nhc thêm vào ch ti nhng hàm nghĩa khác va nng n va đa dng. Vì ti va ch cách mà mt bi kch thong qua đnh hình dn dn thành mt ni đau muôn tha, cách mà ti li trong khonh khc làm ny sinh ti li lâu dài. Đâu đó có mt liên h cht ch gia t do t nn và ti li đng ngoài bi kch ca đt nưc trong tâm tư ngưi Vit. Trong chương 6, Mt đôi phưng quý, ông thy v đp v màu sc và hình hài đang chết dn trong cnh xa đt nưc :

… Mt đôi phưng quý,
Than ôi ! Xù lông dưi mưa đông,
 Nhìn công thèm múa,
 Ri chim chết bên sông…
 
 Trong chương 7, Trên cành vàng con hoàng quyên , đó là th thách ca tiếng hát t do trưc s lnh lo lưu vong : 

…Con vành khuyên không ngng hát chiêm bao…

Nhưng chương 8, Bầy chim biệt xứ, rúng chuông đánh thức loài chim đang ngủ quên ở nơi xa xứ nhờ vào những con én bay báo hiệu xuân về :

Còn u uất trong hang.
Thì nghe bầy én Nhạn xanh tới hân hoan …

Trong việc xác định mùa xuân trở lại như  là sự hồi hương với sức sống mãnh liệt của những con chim én đập cánh, Phạm Duy tìm cách thể hiện một tình cảm mới của đồng bào ông: những kẻ lưu vong đã hết sợ hãi. Chương 9 Én bay thấp, én bay cao cho thấy đã hết áp bức :

… Én bay thấp nên không sợ diều hâu,
Én bay cao nên không khi nào gặp nạn…

Tiếng Vit thưng liên kết s c vi bi kch, và hết bi kch cho thy s đoàn t gia đình nơi mà chim chóc s chung sng vì chúng cùng huyết thng. Trong chương 10, By chim mt nhà, vic không còn s hãi s to nên vn hiu biết đ t v :

 …Chim tự thuở nào chim đã hót, tiếng chim vượt thời gian…

Trong chương 12, Bầy chim một tổ, Phạm Duy kết hợp giấc mơ tự do và giấc mơ ngày trở về, cuộc sống bầy đàn phải là sự sẻ chia những gian nan thử thách trên con đường tìm kiếm tự do :

…Còn nuôi giấc mơ là chim gõ mõ,
Còn nuôi sóng gió là bầy hải âu…

Sự tỉnh mộng phải là hệ quả logic của tiếng hát của chim muông, thế nên trong chương 13, Bầy chim tỉnh giấc, tiếng chim thiêng cất lên đánh thức lịch sử lâu đời của nước Việt Nam đang ngủ mê, thế mà sự thiêng liêng kết hợp với sự bí ẩn tạo nên một thông điệp quý báu : dòng đời đã đến lúc đổi thay, gương  mặt mới đang ở phía trước, và một số phận mới cho tất cả mọi người :

… Từ nơi huyền bí, nổi lên tiếng chim thiêng …

Chương 14 Bầy Chim Huyền Sử, gợi nên sự trở về như trong mơ của con cháu người Việt, theo huyền thoại, trên trống đồng Đông Sơn có khắc sự khởi thuỷ của văn minh Việt với những con rồng, những thiên thần và loài chim :

… Hỡi những cánh chim của tiên với rồng…

Thông điệp này hòa hợp với chương 15, Bầy chim hồi xứ, với niềm hân hoan khiến cho chim dữ phải bay đi :

Bầy chim hồi xứ, trời mây đón đưa chim,
Diều, kên, quạ, cú đuổi lui sống trong đêm…

Phần cuối là chương thứ 16 thể hiện niềm vui lớn lao là được trở về (Chim quyên về đậu ở thôn đoài), chương này cho thấy sự định danh mới của Phạm Duy. Ông nhìn nhận lại cái nghiệp nhạc sĩ của mình giữa lời ca và tị nạn trong sự cất cánh bay đi của chim muông :

..Ta và chim khâu vá đời sau…
Ta còn nhiều phen hát tình yêu.

Spinoza biết rõ cái khóa gắn tình yêu với tự do : « Tình yêu là một niềm vui kèm theo đó là ý nghĩ về một sự nghiệp bên ngoài » ( l’amour est une joie qu’accompagne l’idée d’une cause extérieure) »[8]. Phạm Duy đã sẵn sàng hòa nhập vào định nghĩa này về tình yêu với niềm tin hân hoan rằng tình yêu sẽ tạo nên sự tồn tại của tình yêu, ngọn nguồn của sự thăng hoa, của sự may mắn được sống tự do.
Girls Generation - Korean