Chúng ta có nhiều nhà văn miền Nam, viết theo phong thái và ngôn ngữ đặc thù của miền Nam như Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Cháùnh, Phi Vân rồi Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên tới Nguyễn Thị Thụy Vũ, Hồ Trường An, Huỳnh Phan Anh, Trần Thị Ngh., Kiệt Tấn v.v... Nhưng về thơ thì hình như sau Nguyễn Đình Chiểu chỉ có Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt và gần đây nhất là Cao Đông Khánh.
Tuy vậy, về phương diện thuần chất miền Nam thì thơ Tô Thùy Yên cũng như Trần Tuấn Kiệt không còn thuần chất lắm, nó đã chín phần mười nhập vào cái thăng hoa của ngôn ngữ Việt nói chung.
Thơ Cao Đông Khánh giữ được nhiều bản sắc miền Nam hơn:
sàigòn, chợ lớn như mưa chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về xóm chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm giấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông
sàigòn khánh hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiếng
ngã tư quốc tế đứng sàng xê
gánh nước nặng hơn vác thánh giá
má đỏ hình như rượu mới hồng
Có thể Cao Đông Khánh làm thơ đã từ lâu. Nhưng chỉ từ khi ra hải ngoại sau biến cố 75 thơ ông mới được phổ biến và được nhiều người biết đến.
Theo nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh trên báo Phố Văn thì:
“Thơ Cao Đông Khánh xuất hiện khi làn sóng thuyền nhân lên cao độ những năm 80-81, khi lương tâm nhân loại phải đương đầu với thảm kịch thuyền nhân Việt Nam, khi những tuyên truyền khuynh tả và chủ nghĩa bạo tàn đã để rơi mặt nạ. Thủ phạm đã rõ nhưng nạn nhân cũng đã quá nhiều, hàng trăm ngàn người trong số hơn hai triệu thuyền nhân rời bỏ quê hương đã không bao giờ đến bến. Họ, những thảm kịch mà công luận quốc tế cuối cùng đã biết đến, đã nhìn thấy, họ đã bỏ mình nơi biển cả, trong rừng sâu, vì bạo lực, vì bất nhẫn của người đối với người... Cao Đông Khánh là thuyền nhân, ông đã sống cái bi tráng đó và ông đã dùng thơ để lên tiếng.
Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn là một tuyển tâïp những bài thơ Cao Đông Khánh đã sáng tác trong hai thập niên từ 1976 đến 1996, gồm đủ mọi thể loại từ lục bát đến thơ văn xuôi. Và bài nào của ông hình như cũng có dấu vết máu và nước mắt các cuộc biến đổi tang thương trên đất nước dù ông có nói đếùn điều gì chăng nữa.
“Nơi em ở đó lâm li tình ái, mà, em nỡ bỏ đi, không ai có thể hiểu nổi. Cái trái ô môi đậm đà hơn đường mật, cái thơm cái khóm ngọt ửng màu phèn, cái xe thổ mộ rềnh rang lục lạc, cái con nhỏ hồi xưa tóc cài hoa thiên lý, mà, lí em về dọn dẹp hồi xưa, dọn anh ra khỏi quốc gia, dọn Việt Nam ra hải phận quốc tế.
Anh mang khối tình còn e lệ đi chu du.
Trên núi mây ngũ sắc, ngoài biển gió mưa hòa thuận anh gầy lại miếng đất thân sinh, lập trang trại gia bảo. Anh chọn con ngựa trong mười hai con giáp, anh tra khớp bạc, anh thắng kiệu vàng, anh phi nước kiệu đưa nàng đi thăm cổ tích, có chiếc lá rơi biến thành chim vành khuyên đậu trên vai người hóa đá”.
Thật hụt hơi. Ta tưởng chừng như đang nghe một bài vọng cổ, được ca bằng một giọng tài tử nhưng có thừa ngọt ngào, vừa oán trách vừa thiết tha.
Kể lể với đời, kể lể với tình. Ai kể? Ai nghe? Cuộc tan vỡ mỗi người mang một ít trong máu, nghe nói thì hiểu ngay, chẳng cần biết đó là chuyện của ai. Bài vọng cổ không phải đời sống, nhưng có bao nhiêu đời sống mất đi mới thành bài vọng cổ, hát lên và nghe hát là có thể khóc, không phải khóc những gì ở ngay trong bài vọng cổ, mà khóc cái xa hơn, khóc người đã trở thành bóng, khóc xóm củi, khóc cái bến tắm ngựa, khóc chuyến xe buýt đậu trước cửa chợ Bà Chiểu, em mặc áo dài đen bước xuống... rồi biển lấp đi tất cả...
như vậy đó, biển hằng ngày tăng trưởng
biển mọc trong đầu biển khắp tay chân
biển xót xa em từ cái răng cái tóc
con mỹ nhân ngư này tên gọi thuyền nhân
em nói chồng em chết tù cải tạo
những đứa con ngọc ngà chết ở biển đông
còn đứa trẻ khôi ngô này sinh ở trại tị nạn
cha nó đang làm hải tặc Thái Lan
Có chỗ nào cho thơ trong những chuyện đớn đau như thế? Cao Đông Khánh viện dẫn đến cả những lời nói thông thường của các người bán hàng rong, các tay anh chị, cả những chữ líu lưỡi của dân nhậu không chừng:
Để anh nhắc ngày anh ra biển
chặt một chân để lại làm tin
hãy xẻ khô cất làm lương thực
em ráng sống giùm anh nghe em
nghe đó em người làm nhân chứng
tình yêu này như hỏa diệm sơn
Để anh kể cho em tưởng tượng
một đêm, gió khô hết hơi thở
người chết dưới biển lên đảo viếng thăm
Nguyễn Vy Khanh đã nói đúng: “Thơ Cao Đông Khánh không phải là văn chương mà trước hết là ngôn ngữ và tiếng nói.”
Thật vậy, người đọc thường phải đương đầu với một ngôn ngữ quá đà, thô tục, một ngôn ngữ tuyệt vọng nẩy sinh tiếng cười khinh mạn, châm biếm, những thành ngữ bẻ cong bẻ ngược như tiếng lóng trao đổi ở đầu đường vô nghĩa.
Thơ Cao Đông Khánh phải đọc lớn tiếng và nếu được, trước người khác, hình như mới hay, vì với Cao Đông Khánh, ý của ngôn ngữ chính là ở ý của lời nói: Bài thơ bỗng rưng rưng / lời mặc khải viết xuống thành chữ / chữ hiện hình xinh đẹp”.
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN
Nguồn: Viet Tide
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét