NGUYỄN ĐÌNH TOÀN
Vũ Bằng là một trong những nhà văn tiền phong của chúng ta. Ông viết văn, viết báo rất sớm. Năm 16 tuổi, còn đang là một học sinh trung học, ông đã có sách in ra, đó là cuốn Lọ Văn, châm biếm người đồng thời.
Những tác phẩm chính của Vũ Bằng đã được xuất bản gồm có:
Lọ Văn [Tạp văn]
Một Mình Trong Đêm Tối [Tiểu Thuyết]
Truyện Hai Người [Tiểu Thuyết]
Tội Ác Và Hối Hận [Tiểu Thuyết]
Để Cho Chàng Khỏi Khổ [Tiểu Thuyết]
Khảo Về Tiểu Thuyết [Biên Khảo]
Miếng Ngon Hà Hội [Tạp Văn]
Phù Dung Ơi Vĩnh Biệt [Sau đổi thành Cai, Tự Truyện ].
Bốn Mươi Năm Nói Láo [Hồi Ký]
Thương Nhớ Mười Hai [Tạp Văn]
Được biết, đương thời Vũ Bằng cộng tác với rất nhiều báo, viết nhiều mục khác nhau, ký nhiều tên khác nhau, nên có thể còn rất nhiều bài vở của ông chưa được sưu tầm đầy đủ.
Nhưng qua những gì đã được in thành sách, người ta đã được đọc, có thể coi như tầm quan trọng của hai vai trò nhà văn và nhà báo của ông ngang nhau.
Ông đã lăn xả vào nghề làm báo, bỏ dở cả học hành, phụ cả ước mơ của thân mẫu những ước muốn ông trở thành một bác sĩ. Song chính nhờ những người như ông mà nền báo chí của chúng ta đã trưởng thành mau chóng.
Hồi ký Bốn Mươi Năm Nói Láo của ông, tuy ông viết về mình, rõ hơn, viết về việïc theo đuổi cái nghiệp viết văn, làm báo của mình, nhưng qua tác phẩm này, người đọc có thể hình dung lại được một phần sinh hoạt báo chí Việt Nam hơn nửa thế kỷ trước. Cũng qua Vũ Bằng, người ta được biết nhiều chuyện vui buồn liên quan đến các nhà văn, nhà báo kỳ cựu của chúng ta môt thời như: Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tích Chu, Tam Lang, Phùng Tất Đắc, Vũ Trọng Phụng, Đào Trinh Nhất, Tản Đà, Nam Hương, Nhượng Tống...
Ngay từ những ngày đầu tiên ấy, ông đã ý thức rõ ràng về cái nghề làm báo của mình. Vũ Bằng viết:
“Bây giờ người ta gọi nghề làm báo là nghề nói láo ăn tiền. Kẻ viết bài này đã ngã vào cái nghề đó từ lâu, hôm nay ngồi giở lại cuốn sổ ký ức của mình, xin nhận ngay là mình làm nghề nói láo, Vì thế, tác giả lấy đầu đề tập ký ức này ‘Bốn Mươi Năm Nói Láo’ chứ không dám đề là ‘Bốn Mươi Năm Làm Báo’. Vì tác giả nhận thấy rằng, nói láo là một cái vinh dự, làm nghề nói láo là một nghề đặc biệt ít ai dám đem ra khoe khoang. Thực vậy, đa số các nhà làm báo bây giờ, nghe thấy danh từ ‘làm báo nói láo ăn tiền’ ngoài mặt thì có vẻ bất cần, nhưng trong thâm tâm thì hơi giận: tại sao làm một cái nghề cao quý như nghề báo, tại sao lãnh một cái sứ mạng nghiêm trọng là hướng dẫn dư luận, tại sao phục vụ một quyền lực lớn mạnh vào bậc thứ tư trên trái đất này mà có người dám bảo là nghề nói láo?”.
Nghề báo đến với nước ta muộn so với các nước Âu Mỹ. Vậy người Âu Mỹ nghĩ sao về nghề báo?
Carlyle cho rằng: “Cao quý thay nghề làm báo. Một ông chủ báo có khả năng há chẳng phải là một nhà cai trị thế giới, vì là người thuyết phục thế giới, mặc dầu không do thế giới cử mà do mình cử mình thôi, tuy nhiên cũng được bằng con số báo bán ra cho thiên hạ”.
Còn văn hào Đức Goethe thì lại nói về báo chí bằng những lời chua chát: “Từ lâu, tôi vẫn tin rằng báo chí ra đời, là đề tài để cho dân chúng người ta tiêu khiển giết thì giờ và lòe bịp họ nhất thời, hoặc vì có một sức mạnh nào ở bên ngoài ngăn viên ký giả nói ra sự thực; hoặc vì tinh thần đảng phái đánh cho y lạc hướng đi, vì thế tôi không đọc một tờ báo nào hết”.
Vũ Bằng cho biết, khi ấy chưa có một trường nào dạy viết văn, làm báo, ông đã đọc và học thuộïc thơ của Tản Đà, Nam Hương, Nhượïng Tống, Thi Nham, Đàm Xuyên, để rồi bắt chước.
Đọc những dòng tâm sự của ông, người ta vừa buồn cho ông, vừa buồn cho đất nước:
“Mục đích của tôi là thuật lại thật đúng các giai đoạn làm báo nói láo ăn tiền của tôi để nhân đó may ra có nhận thấy diễn tiến của nghề báo ở nước ta như thế nào. Thêm nữa, tôi bắt đầu làm báo từ khi người mình còn sống dưới sự đô hộ của Pháp, qua thời kỳ Nhật vác kiếm lê trên mặt đất, đá Pháp một cú vào mông, rồi đuổi đi, đến Việt Minh bí mật, rồi Nhật thua, Việt Minh nắm chính quyền, rồi Pháp trở lại, rồi Pháp thua Điện Biên Phủ, ký hiệp định Geneve chia đất nước làm đôi, vác va li vào Sài Gòn hầu hạ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, cho tới bây giờ sống nhờ vào quân đội Mỹ ô kê, sa lem... rất có thể cứ thuật lại hết những giai đoạn nói láo của mình, chưa biết chừng lại vẽ lại được một giai đoạn đau thương tang tóc, đã qua”.
Vũ Bằng cũng kể lại trong Bốn Mươi Năm Nói Láo cuộc gặp gỡ của ông với ông Phùng Tất Đắc, khi ấy đang là chủ bút báo Đông Tây, như sau:
“Tôi được gặp ông Phùng Tất Đắc lần đầu tiên vào một chiều tắt nắng, nhân dịp yết kiến Hoàng Tích Chu, tại trụ sở báo Đông Tây, số 12 phố Nhá Thờ.
Vừa mới thấy ông Đắc ngồi ở bàn viết, ở cửa đi thẳng vào, tôi đã biết ngay, không phải đã được ông tự giới thiệu, nhưng tại chính tôi được biết vì có bạn bè, trước đó, đã chỉ ông cho tôi rồi, ngồi xuống ghế, nói với ông câu đầu tiên, máu tôi chảy có một vòng, phần vì sợ văn ông, phần vì vẫn nghe tiếng ông là con nhà giàu ở Nam Thành, thạo đời ‘một cây’, lại có tiếng là tay ăn chơi ‘sộp’... tôi luống cuống và cảm thấy tay chân thừa cả, không biết giấu chỗ nào”. Ông Đắc mặc Âu phục, vén tay áo sơ mi lên ngồi rung đùi khảo cứu Nho Giáo. Bên cạnh cuốn sách của Lệ Thần Trần Trọng Kim, tôi thấy một chồng sách chữ Nho. Đêm hôm ấy, về nằm nhớ lại buổi ban chiều, tôi chán đời không thể tả, vì thấy Phùng Tất Đắc, tôi quan niệm muốn viết báo cho ra viết báo, muốn sử dụng ngòi bút tài tình như ông Đắc trong mục ‘Trước Đèn’ của báo Đông Tây, người ta phải thông kim bác cổ, thạo cả chữ Hán lẫn chữ Tây”.
Sau này, năm 1964, khi ông Phùng Tất Đắc cho tái bản cuốn Trước Đèn, người đề tựa cho cuốn sách lại chính là Vũ Bằng đấy!
‘Người xưa’ đối xử với nhau như thế không lạ sao? Không đẹp sao?
Nói chung các cuốn tiểu thuyết của Vũ Bằng không được nhiều người đọc như các cuốn tạp văn của ông. Ngay cả cuốn Luận Về Tiểu Thuyết, được viết vào một thời chưa một ai [trong nước] bàn về lý thuyết của bộ môn nghệ thuật này, cũng không được mấy người muốn vào nghề tìm đọc.
Hai cuốn tạp văn Miếng Ngon Hà Nội và Thương Nhớ Mười Hai được độc giả hoan nghênh hơn nhiều. Ở các cuốn này, văn ông trau chuốt, đôi khi đọc, người ta có cảm tưởng như đang đọc những bài thơ xuôi.
Sau đây là một đoạn Vũ Bằng viết về Phở: “Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú, một nhúm bánh phở, hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc, mấy nhát gừng màu vàng thái mướt như tơ, mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên, vừ đỏ sẫm như hoa lựu... Ba bốn thứ màu sắc đó, cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể, của một họa sĩ trong phái Văn Nghệ Tiền Tiến, dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp mắt.
Trên tất cả mấy thứ đó, người bán hàng bây giờ mới thái thịt bỏ từng miếng bày lên”.
Trong văn chương của chúng ta không biết đã có bao nhiêu người viết ca ngợi ‘cốm’, cái món ăn đặc sản này của dân tộc? Và cũng không biết trên thế giới những dân tộc nào chế biến được món ăn tương tự, dù họ có trồng lúa? Đó là điều người ta không thể không có lúc cảm thấy thầm hãnh diện tựï hỏi, khi đọc vũ Bằng viết về cốm Vòng, vì ngoài cái ngon còn có cái đẹp của món ăn nữa:
“Cốm Vòng quả là một thứ quà đặc biệt nhất trong mọi thứ quà Hà Nội, đặc biệt vì cứ mỗi khi thấy gió vàng hiu hắt trở về thì lại nhớ đến cốm, mà đặc biệt hơn nữa là khắp các nẻo đường đất nước, chỉ có Hà Nội có cốm thôi!
Có những hình ảnh đẹp quá, thoáng qua trước mắt một giây, mà ta nhớ không bao giờ quên.
Bây giờ nghĩ lại cái đẹp não nùng của cốm Vòng xanh màu lưu ly để ở bên cạnh những trái hồng trứng thắm mọng như son tàu, tôi thích nhớ lại một buổi chiều đã xa lắm rồi, có một nhà nọ đưa hồng và cốm sang sêu một người em gái tôi.
Trên một cái khay chân quỳ, khảm xà cừ, đặt ở giữa án thư, hai gói cốm bọc trong lá sen được xếp song song còn hồng thì bầy trong một cái giá, dưới đệm những lá chuối xanh nõn, tước tơi, để ở trên mặt sập”.
Lại không phải chỉ có cái ngon, cái đẹp, qua ngòi bút Vũ Bằng còn có cả cái tình bên những món ăn nữa.
Đoạn Vũ Bằng nói về món “hổ lốn”, tức là những món ăn dư của những ngày giỗ, tết, bỏ “hầm bà làng” vào nồi đun nóng, thêm vào chút ít rau cỏ, cũng đáng được đưa vào các cuốn “thi văn trích diễm”:
“Ngoài sân mưa, mưa lăn tăn làm ướt giàn thiên lý. Mấy con ngỗng trời bay tránh rét, buông ở trên màn trời xám màu chì mấy tiếng đìu hiu. Cơm vừa chín tới, ‘hổ lốn’ lại nóng hổi, bốc khói lên nghi ngút, mà ngồi ăn ở trong một căn phòng ấm cúng với người vợ má hồng hồng vì mới ở dưới bếp lên, có họa là thất phu lắm mới không cảm thấy cái thú sống ở đời”.
Cuốn Thương Nhớ Mười Hai xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 được rất nhều người đọc và coi ông như một trong những nhà văn viết tùy bút hay nhất của chúng ta.
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét