Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2009

Ðinh Hùng

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

Có thể nói, tất cả các thi sĩ của chúng ta, không ít thì nhiều, ai cũng làm thơ tình.

Nhưng hình như chỉ một mình Ðinh Hùng, đã dành suốt đời thơ của mình, để làm thơ ca ngợi tình ái.

Dĩ nhiên, suốt lịch sử của chúng ta, cho đến tận hôm nay, có lẽ chưa một người nào có thể sống được nhờ thơ của mình, hiểu theo nghĩa cụ thể: sống bằng tác quyền thơ.

Ðinh Hùng cũng vậy. Ông phải sống nhờ vào những công việc khác như làm báo, dạy học, cộng tác với các đài phát thanh.

Song tất cả các công việc này chỉ giúp ông tồn tại để làm thơ. Ở miền Nam không có chế độ thi sĩ ăn lương nhà nước, nên các văn nghệ sĩ đều phải tự lo liệu lấy đời sống của mình, như mọi người khác.

Và, người ta rất tư hào về sự không lệ thuộc này.

Ðinh Hùng có làm thơ trào phúng, viết truyện hằng ngày cho các báo, và ông cũng có viết mấy vở kịch thơ nữa, nhưng sự nghiệp chính của ông vẫn là hai thi phẩm: Mê Hồn Ca và Ðường Vào Tình Sử.

Cả hai tác phẩm này đều là những tậïp thơ tình.

Gọi đó là những tập thơ tình chỉ là một cách nói giản dị.

Thực ra đây chính là vũ trụ thơ Ðinh Hùng.

Phải gọi là vũ trụ thơ Ðinh Hùng vì từ khi ông mở ra cái thế giới ông gọi là mê hồn ca ấy, ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc của ông dành cho cái thế giới đó, cho đến những ngày cuối cùng của đời ông, không hề thay đổi.

Khi Ðinh Hùng biến đổi ngôn ngữ / hình ảnh / cảm xúc của ông thành tranh, bởi vì Ðinh Hùng còn biết vẽ nữa, cái thế giới trong tranh và trong thơ của ông vẫn chỉ là một.

Nói về cái bìa tập Mê Hồn Ca do chính Ðinh Hùng vẽ, ấn bản của nhà Khai Trí, Nguyên Sa viết:

“Thiếu nữ chắp tay nguyện cầu, trên nền ngọn lửa, tóc nàng chạm vầng trăng, trong vầng trăng có chữ Thơ. Góc trái của bức tranh có hình Phật Bà ngồi trên tòa sen, hai ngọn lửa một trắng, một đỏ chìm phía dưới làm tôn sự uy nghi của Phật Bà, chứ không làm suy giảm hay biểu lộ sự đe dọa nào cả. Phía trên, bên mặt là những vì sao, phía tận cùng dưới có hình đầu lâu và chữ ký Ðinh Hùng, chữ Hùng nguyên chữ, chữ Ðinh chỉ một chữ Ð viết hoa và dấu chấm. Chim, không rõ loại, mỏ dài, không phải là bồ câu, đậu trên đầu lâu trắng hếu, dưới mỏ chim có hai trái tim. Chim màu xanh nước biển, hai trái tim màu đỏ, cùng với mặt trăng có chữ Thơ, thiếu nữ mặc áo màu xanh rêu đậm, nền trời xanh. Phía dưới góc trái có một vật hình thể dài, không phân biệt được là hình gì, có vẻ như đền đài thời xa xưa, có vẻ như kim tự tháp, cũng có vẻ như chiếc mộc của người da đỏ”.

Những hình ảnh mà Nguyên Sa nói rằng không phân biệt được trong tranh Ðinh Hùng cũng là những gì người ta cảm nhận được trong thơ Ðinh Hùng, ông không viết ra, nhưng dường như nó lẩn khuất đâu đó ở đằng sau, ở đằng trước, ở chung quanh những chữ ông viết ra, một thế giới u uẩn, gồm cả trăng sao, tín ngưỡng, chim chóc, đàn bà, cái chết và sự say đắm:

Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên em ôi biển sắc, rừng hương!
Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm
Em đến đây như đến tự Thiên Ðường
Những buổi đó ta nhìn em kinh ngạc
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ!
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
Thấy cả bóng một vừng đông thuở trước
Cả con đường sao mọc lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ!

Có người cho rằng Ðinh Hùng chịu ảnh hưởng thơ Tống, thơ Ðường, thơ tượng trưng Pháp.

Nhưng đọc những bài như Kỳ Nữ của ông hẳn người ta phải thấy đó là cái thế giới của riêng Ðinh Hùng, nó lẫn lộn giữa mộng và thực, tiền kiếp và hiện sinh, “ở bên em” mà “khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ”, trong một đôi mắt mà ông nhìn thấy cả “vừng đông”, “sao mọc” và “chiều sương”, nghĩa là một không gian / thời gian hỗn mang.

Thèm ăn một chút hương man dại
Và ngủ như loài muông thú kia

Cái thèm ấy có dinh dáng chút gì đó với con người tiền sử chăng?

Cũng có người cho rằng, Ðinh Hùng có một chút “máu xanh”, nghĩ là máu của các quan Châu, quan Lang, vùng Thượng Du Bắc Viêt, vì trong thơ ông, rừng, núi, hang, động, suối, đèo, hoa cỏ hoang vu, đóng một vai trò rất quan trọng.

Song tất cả những điều ấy, cũng chỉ dùng để làm tăng thêm nhan sắc của người đàn bà trong thơ ông, làm tăng thêm nỗi say đắm trong lòng ông đối với các nàng thơ của ông thôi:

Ta run sợ cho yêu là mệnh số
Mặc tay em đinh hộ kiếp ngày sau
Vì người em có bao phép nhiệm màu
Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc
Ta đặt em lên ngai thờ nữ sắc
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da
Buổi em về xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết
Ôi cam dỗ! Cả mình em băng tuyết
Rợn xuân tình lên bộ ngực thanh tân
Ta gần em mê từng ngón bàn chân
Mắt nhắm lại để lòng nguôi gió bão

Nói tóm laị, có thể nói Ðinh Hùng mới thực sự là thi sĩ của tình ái.

Tất cả thơ của ông, chỉ là những lời ngợi ca tình ái, dù ở trong đó có gai sắc làm chảy máu, có những giấc mơ dữ dội, có hương trầm trên các lối đi, trời đất đều thơm tho bởi vì có em trong đó, ông yêu từ lúc chưa gặp

Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
cho đến lúc người không còn nữa:
Nằm trong đáy mộ chắc em sầu
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu

Ðinh Hùng cũng là thi sĩ duy nhất cho ta thấy hình như tình yêu nối được cả đời sống và cõi chết, biến hung bạo thành dịu dàng và ngược lại

Hỡi kỳ nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần, ôi sắc đẹp yêu ma
Lúc cuồng si nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết

Ðinh Hùng muốn nói gì thì nói, thơ ông chỉ có một ý nghĩa: đó là những lời tỏ tình.

Hay nói theo cách nói của chính Ðinh Hùng:

Ta, suốt đời ngư phủ
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Nguồn: Viet Tide

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Girls Generation - Korean