Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2009

Quách Tấn

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Quách Tấn là một hiện tượng đặc biệt của thi ca Việt Nam.

Trong khi những nhà nho cuối cùng của chúng ta như Tản Đà, Phan Khôi gần như không còn ai làm thơ Đường luật nữa, và phong trào thơ mới cũng đang bước dần sang thế giới thơ tự do với những Nguyễn Xuân Xanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đình Thi; Quách Tấn vẫn sống lặng lẽ với “vũ trụ thơ ngũ ngôn, thất ngôn bát cú” của ông.

Trước 1975 ông còn cho xuất bản nguyên một tập thơ sáng tác theo phong cách ấy, lấy tên là Mùa Cổ Điển.

Hai chữ “cổ điển” chính ông dùng để gọi thơ mình, hình như không hề có ý thách thức hay so sánh vơí bất cứ một hình thức thơ mới / cũ nào. Nó chỉ khẳng định công việc của ông.

Nói Quách Tấn lặng lẽ sống, không phải chỉ vì ít người, rất ít người gặp ông, biết ông như một người làm thơ, một thi sĩ. Người ta không bao giờ thấy ông tới một nơi nào để hội họp bàn chuyện văn chương, phát biểu ý kiến, phê bình, khen chê người này hay tác phẩm nọ, ở một địa điểm công cộng nào.

Hình như ông cũng ít di chuyển, đi đây, đi đó.

Ông ở Huế, hay thật ra, phần lớn người ta phỏng đoán như vậy, vì đọc thơ ông:

Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thơ viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ cỏ sương tùng Thế Miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Huơng Giang
Trông vời Thiên Mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng

Nhớ xưa, Tản Đà sau đôi lần vào Nam ra Bắc, có lúc ngồi kiểm kiểm lại cuộc đời cầm bút của mình, đã viết trên tờ Đông Pháp Thời Báo số ra ngày 17 tháng 12 năm 1927 như sau:

“Tôi từ theo nghề quốc văn kể có tới gần mười lăm năm, lên bổng xuống trầm, vào trong ra đục, phong trần chẳng quản, phi nghị mặc ai, thực cũng mong tựa văn chương để có ít nhiều sự nghiệp. Mới đây, tôi ở Hà Nội vào Nam, thăm Thuận An, qua Đà Nẵng, trải Hoành Sơn, Hải Vân, một lần đường bộ, hai lần đuờng thủy, càng thấy giang sơn ta là to, càng mới biết văn chương là rất nhỏ mà bao nhiêu cái tư tưởng muốn lấy văn chương làm sự nghiệp, tự nhiên như bọt bể mây ngàn”.

Đó đây không thiếu những nguời khuyến khích, tán dương những chuyến du hành, nhất là đối với các văn nghệ sĩ, coi đó như một điều kiện cần thiết để sáng tác.

Về chuyến đi xa và dài tới tận nước Mỹ của mình, Võ Phiến lại cảm nhận thêm một điều gì đó, vừa khôi hài vừa bi thảm nữa. Một bữa đi vãng cảnh núi non tại Quốc Gia Lâm Viên Hồng Sam, nhìn cây hồng sam có cái tuổi khoảng 4000 năm, gần ngang với tuổi của Tổ Hùng Vương, tần mần cho mấy ngón tay ngoáy vào những lỗ đá lớn bằng miệng chén trà, thổ dân Da Đỏ xưa đã dùng như là một thứ cối để nghiền thức ăn, Võ Phiến bỗng băn khoăn tự hỏi:

“Một đứa bé sinh trưởng ở làng quê dưới chân dãy Trường Sơn bên Việt Nam như mình sao lại đến nỗi có ngày ngồi ngẩn ngơ giữa một cao độ um tùm miền Tây lục địa Mỹ Châu thế này?”

Như thế, đi nhiều, đi xa, và có đi thật xa chăng nữa, đó là điều hay hay dở quả thật cũng khó biết. Nó lại còn tùy thuộc mỗi người nữa.

Trước 1975, ở Sài Gòn, cũng hiếm khi người ta thấy bóng Quách Tấn, hoặc giả ông có vào, nhưng ngay cả trong văn giới hình như ông cũng không giao du.

Ngay thơ ông, thỉnh thoảng lắm mơí thấy xuất hiện trên báo, thường là chỉ trong các số đặc biệt như số Xuân chẳng hạn.

Đọc thơ Quách Tấn người ta thấy, cái mà ông yêu nhất có lẽ là sự lặng lẽ, yên tịnh:

Chim chiều kêu trước giậu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng

Ông sống với sự lặng lẽ tìm thấy, nghe thấy và cả nhìn thấy quanh mình:

Nghìn xưa trang giấy lật
Hiu hắt ngọn hàn đăng
Tháo kính ra thềm đứng
Cành rơi đôi giọt trăng

Quách Tấn đã mất tại Huế ngày 21 tháng 12 năm 1992.

Nghe nói trước khi mất ông đã phải trải qua những ngày khó khăn, tang thương lắm.

Đọc lại thơ ông, nghĩ tới những nỗi biển dâu trong đời, người ta bỗng thấy cái tịch mịch, lặng lẽ trong thơ ông, thấm qua mình như một sự xóa bỏ không cưỡng lại được.

Nhưng xóa bỏ cái gì đây?

Đêm xóa bỏ ngày. Cái chết xóa bỏ đời sống. Quên xóa bỏ nhớ.

Danh lợi mình không tranh với ai
Vườn không rào kín ngõ không cài
Sân lồng gió biển cháu kèo mận
Hiên ngát hương trời ông thưởng mai
Đầu bạc tuổi xanh xuân vẫn một
Chim vàng bướm trắng thú chung đôi
Bên đường em bé nhủ mua báo
Rằng: nhạn đưa tin đã đến rồi

Bài thơ Đường luật, vận / đối nghiêm chỉnh, nhưng hình ảnh, ý tứ, lại có vẻ gì đó nửa tân kỳ, nửa cổ điển: hiên mai, kèo mận, bán báo, nhạn đưa.

Nếu thơ là nơi ẩn trốn của người làm thơ thì cùng một lúc nó cũng cho thấy đó là một nơi ẩn trốn không an toàn.


NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Nguồn: Viet Tide

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Girls Generation - Korean