Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011

Merry Christmas and Happy New Year 2012

Bạn,

Thế là một năm nữa lại sắp trôi qua. Hoctro xin chúc bạn và gia quyến một mùa Giáng Sinh vui tươi và một năm mới an khang thịnh vượng.

Như thông lệ mỗi cuối năm, tôi đi xem lại tựa bài của những gì tôi đã viết trong năm, và cảm thấy hài lòng, tuy số lượng bài ít đi nhưng có nhiều bài viết nói hay dịch về sở thích âm nhạc, như bài Tổng quan về Lý thuyết viết lời cho một bản nhạc, rồi Giới thiệu sách "What makes it great", một loạt ba bài viết về nhạc Lê Uyên Phương: Vài cảm nghĩ về nhạc thuật của nhạc sĩ Lê Uyên Phương, Vài cảm nghĩ về "Buồn Đến Bao Giờ"
"Chiều Phi Trường" - Một tiêu biểu của cách viết nhịp điệu trong nhạc Lê Uyên Phương. Nhạc dịch lời Việt cũng được chú ý, qua một số bài sưu tầm hay cảm nghĩ về nhạc lời Việt của các nhạc sĩ Trường Kỳ, Tuấn Dũng, Phạm Duy. Tôi cũng viết một bài viết ngắn giới thiệu một bài nhạc dịch của bạn Leaqua:
Vài cảm xúc về bản dịch mới nhất của Leaqua, bài Michele (Gerard Lenorman trình bày). Leaqua vẫn tiếp tục sáng tác nhạc đều tay, đến nay sau hơn một năm đã có trên 62 bài dịch.với bài mới nhất là Colors of The Wind - Vanessa Williams, cho thấy phong độ của cô vẫn như trước, và đang chuyển hướng sang những thể tài đa dạng hơn như thông qua mô tả thiên nhiên để diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong DVD Thúy Nga 104 mới nhất, ca sĩ Khánh Hà cũng có hát lời Việt bản nhạc Entre Nous ( mà MC Nguyễn Ngọc Ngạn giới thiệu sai là một trong những bài nhạc hay được giới yêu nhạc hát trong những thập niên 60-70 - bài Entre Nous được hát lần đầu bởi Chimene Badi thập niên 00 của thế kỷ 21), theo tôi lời dịch bài đó hời hợt, không nói lên được tâm trạng nhân vật nếu đem so sánh với bài dịch của Leaqua Entre Nous - Chimène Badi - Em và Anh,theo đó những chữ "khi" mô tả rất đắt những buồn vui, hờn dỗi trong tình yêu giữa hai người nam và nữ:

Em và Anh
Khi đắm đuối
Khi quay lưng
Khi hờn ghen
Khi nhức nhối
Khi hoang mang
Khi buồn đau
Ta đã biết yêu nhau là yêu mãi một đời
 .
Trở lại phần điểm blog nhà, các bài viết khác đáng lưu ý trong năm qua là Những kỷ niệm về nhạc Paul Mauriat, hay một loạt ba bài viết về nhạc Phạm Duy:Vài cảm nhận nhỏ về bài "Cho Nhau", rồi Vài cảm nghĩ về nhạc phẩm "Rong Ca 1 - Người Tình Già Trên Ðầu Non" , và Nghĩ quanh quẩn về chủ đề "mưa" trong nhạc phẩm "Mưa Rơi" của nhạc sĩ Phạm Duy. Sau cùng là một bài viết về Tìm Hiểu về Bộ Não Con Người và Óc Sáng Tạo

Năm 2011 cũng là năm tôi kỷ niệm 20 năm làm việc với hãng, năm tôi cho con trai út đi học đàn piano, năm bạn thân tôi lên xe bông, năm tôi bắt đầu đầu tư vào iPad2 để mua các apps dạy con trai tôi học toán, học chữ mới theo màn hình cầm tay. Tôi cũng mua cái app GarageBand mà không sao có thì giờ chen vào giành máy với bà xã và hai đứa con, mà tôi thì không có tiền mua mỗi người một cái, hihi ... Năm tới tôi cũng muốn blog hoctroviet có số lượng posts khiêm tốn 75 bài như vậy, chỉ post khi nào có chuyện thật muốn nói, còn không thì thôi để dành sức lực làm chuyện khác như học GarageBand, học chụp hình chẳng hạn.

Một lần nữa cám ơn bạn đã theo dõi post tới lúc cuối và xin chúc bạn vạn sự như ý!!!


Hoctro
12-21-2011

*** Update 12-26-11: Ngày vui qua mau!!!!




South Coast Plaza 12/26/11






Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011

Let It Be (The Beatles) dùng software Garage Band.


Bạn, Post này dành kỷ niệm bài nhạc đầu tiên tôi viết trên iPad2/iTouch dùng software GarageBand của Apple. App này giá 5$, mua một lần rồi dùng được cả iPad lẫn iTouch.

Nghe thì không hay, nhưng lúc compose bài rất vui vì phải đánh đi đánh lại. Nối connector từ tai nghe sang amplifier nghe rất "đã" vì trống và bass nghe còn thật hơn dùng mấy cái keyboard có style sẵn mà tôi có.


Lại học tài .. thi lý lịch!!!

Bạn,

Mới đọc xong bản tin này từ Yahoo, buồn quá!!! Tưởng thoát cái vụ lý lịch, tới đời con mình nó cũng sẽ không thoát, chỉ vì là người Á Châu.

Theo như thành kiến trong bài viết, thì dân á châu "boring", nhàm. Cha mẹ thì dạy dỗ nghiêm khắc, đòi con phải học được toàn A. Tôi thấy tôi cũng ráng cho con gái học, nhưng đâu có mù quáng quá mà đòi nó lấy hết các môn điểm A? cũng cho nó học đàn, theo ban nhạc ở trường cho vui đó chứ, đâu chỉ có học không thôi đâu?


Espenshade found that Asian-Americans needed a 1550 SAT to have an equal chance of getting into an elite college as white students with a 1410 or black students with an 1100.

Trời! Chỉ cần 1100 đểm là một học sinh gốc da đen được chọn vào rồi, trong khi học sinh Á châu phải cần 1550  trên 1600 điểm để được xét tuyển!

Không biết tới lúc nó thi vào đại học, thì check ô Asian hay là bỏ trống đây? Vô các trường Ivy League thì chắc không rồi đó, còn vô Berkeley thì không biết có vô nổi không, và học lại bạn bè không, vì 40 % là Asian rồi, và toàn học sinh xuất sắc không ...Thiệt là nhức cái đầu. 

Dán bài viết lại ở đây để dễ tìm ...

***

Some Asians' college strategy: Don't check 'Asian

http://news.yahoo.com/asians-college-strategy-dont-check-asian-174442977.html

By JESSE WASHINGTON | AP

Lanya Olmstead was born in Florida to a mother who immigrated from Taiwan and an American father of Norwegian ancestry. Ethnically, she considers herself half Taiwanese and half Norwegian. But when applying to Harvard, Olmsteadchecked only one box for her race: white.
"I didn't want to put 'Asian' down," Olmstead says, "because my mom told me there's discrimination against Asians in the application process."
For years, many Asian-Americans have been convinced that it's harder for them to gain admission to the nation's top colleges.
Studies show that Asian-Americans meet these colleges' admissions standards far out of proportion to their 6 percent representation in the U.S. population, and that they often need test scores hundreds of points higher than applicants from other ethnic groups to have an equal chance of admission. Critics say these numbers, along with the fact that some top colleges with race-blind admissions have double the Asian percentage of Ivy League schools, prove the existence of discrimination.
The way it works, the critics believe, is that Asian-Americansare evaluated not as individuals, but against the thousands of other ultra-achieving Asians who are stereotyped as boring academic robots.
Now, an unknown number of students are responding to this concern by declining to identify themselves as Asian on their applications.
For those with only one Asian parent, whose names don't give away their heritage, that decision can be relatively easy. Harder are the questions that it raises: What's behind the admissions difficulties? What, exactly, is an Asian-American — and is being one a choice?
Olmstead is a freshman at Harvard and a member of HAPA, the Half-Asian People's Association. In high school she had a perfect 4.0 grade-point average and scored 2150 out of a possible 2400 on the SAT, which she calls "pretty low."
College applications ask for parent information, so Olmstead knows that admissions officers could figure out a student's background that way. She did write in the word "multiracial" on her own application.
Still, she would advise students with one Asian parent to "check whatever race is not Asian."
"Not to really generalize, but a lot of Asians, they have perfect SATs, perfect GPAs, ... so it's hard to let them all in," Olmstead says.
Amalia Halikias is a Yale freshman whose mother was born in America to Chinese immigrants; her father is a Greek immigrant. She also checked only the "white" box on her application.
"As someone who was applying with relatively strong scores, I didn't want to be grouped into that stereotype," Halikias says. "I didn't want to be written off as one of the 1.4 billion Asians that were applying."
Her mother was "extremely encouraging" of that decision, Halikias says, even though she places a high value on preserving their Chinese heritage.
"Asian-American is more a scale or a gradient than a discrete combination . I think it's a choice," Halikias says.
But leaving the Asian box blank felt wrong to Jodi Balfe, a Harvard freshman who was born in Korea and came here at age 3 with her Korean mother and white American father. She checked the box against the advice of her high school guidance counselor, teachers and friends.
"I felt very uncomfortable with the idea of trying to hide half of my ethnic background," Balfe says. "It's been a major influence on how I developed as a person. It felt like selling out, like selling too much of my soul."
"I thought admission wouldn't be worth it. It would be like only half of me was accepted."
Other students, however, feel no conflict between a strong Asian identity and their response to what they believe is injustice.
"If you know you're going to be discriminated against, it's absolutely justifiable to not check the Asian box," says Halikias.
Immigration from Asian countries was heavily restricted until laws were changed in 1965. When the gates finally opened, many Asian arrivals were well-educated, endured hardships to secure more opportunities for their families, and were determined to seize the American dream through effort and education.
These immigrants, and their descendants, often demanded that children work as hard as humanly possible to achieve. Parental respect is paramount in Asian culture, so many children have obeyed — and excelled.
"Chinese parents can order their kids to get straight As. Western parents can only ask their kids to try their best," wrote Amy Chua, only half tongue-in-cheek, in her recent best-selling book "Battle Hymn of the Tiger Mother."
"Chinese parents can say, 'You're lazy. All your classmates are getting ahead of you,'" Chua wrote. "By contrast, Western parents have to struggle with their own conflicted feelings about achievement, and try to persuade themselves that they're not disappointed about how their kids turned out."
Of course, not all Asian-Americans fit this stereotype. They are not always obedient hard workers who get top marks. Some embrace American rather than Asian culture. Their economic status, ancestral countries and customs vary, and their forebears may have been rich or poor.
But compared with American society in general, Asian-Americans have developed a much stronger emphasis on intense academic preparation as a path to a handful of the very best schools.
"The whole Tiger Mom stereotype is grounded in truth," says Tao Tao Holmes, a Yale sophomore with a Chinese-born mother and white American father. She did not check "Asian" on her application.
"My math scores aren't high enough for the Asian box," she says. "I say it jokingly, but there is the underlying sentiment of, if I had emphasized myself as Asian, I would have (been expected to) excel more in stereotypically Asian-dominated subjects."
"I was definitely held to a different standard (by my mom), and to different standards than my friends," Holmes says. She sees the same rigorous academic focus among many other students with immigrant parents, even non-Asian ones.
Does Holmes think children of American parents are generally spoiled and lazy by comparison? "That's essentially what I'm trying to say."
Asian students have higher average SAT scores than any other group, including whites. A study by Princeton sociologist Thomas Espenshade examined applicants to top colleges from 1997, when the maximum SAT score was 1600 (today it's 2400). Espenshade found that Asian-Americans needed a 1550 SAT to have an equal chance of getting into an elite college as white students with a 1410 or black students with an 1100.
Top schools that don't ask about race in admissions process have very high percentages of Asian students. The California Institute of Technology, a private school that chooses not to consider race, is about one-third Asian. (Thirteen percent of California residents have Asian heritage.) The University of California-Berkeley, which is forbidden by state law to consider race in admissions, is more than 40 percent Asian — up from about 20 percent before the law was passed.
Steven Hsu, a physics professor at the University of Oregon and a vocal critic of current admissions policies, says there is a clear statistical case that discrimination exists.
"The actual dynamics of how it happens are really quite subtle," he says, mentioning factors like horse-trading among admissions officers for their favorite candidates.
Also, "when Asians are the largest group on campus, I can easily imagine a fund-raiser saying, 'This is jarring to our alumni,'" Hsu says. Noting that most Ivy League schools have roughly the same percentage of Asians, he wonders if "that's the maximum number where diversity is still good, and it's not, 'we're being overwhelmed by the yellow horde.'"
Yale, Harvard, Princeton and the University of Pennsylvania declined to make admissions officers available for interviews for this story.
Kara Miller helped review applications for Yale as an admissions office reader, and participated in meetings where admissions decisions were made. She says it often felt like Asians were held to a higher standard.
"Asian kids know that when you look at the average SAT for the school, they need to add 50 or 100 to it. If you're Asian, that's what you'll need to get in," says Miller, now an English professor at the University of Massachusetts-Dartmouth.
Highly selective colleges do use much more than SAT scores and grades to evaluate applicants. Other important factors include extracurricular activities, community service, leadership, maturity, engagement in learning, and overcoming adversity.
Admissions preferences are sometimes given to the children of alumni, the wealthy and celebrities, which is an overwhelmingly white group. Recruited athletes get breaks. Since the top colleges say diversity is crucial to a world-class education, African-Americans, Latinos, Native Americans, and Hawaiian/Pacific Islanders also may get in despite lower scores than other applicants.
A college like Yale "could fill their entire freshman class twice over with qualified Asian students or white students or valedictorians," says Rosita Fernandez-Rojo, a former college admissions officer who is now director of college counseling at Rye Country Day School outside of New York City.
But applicants are not ranked by results of a qualifications test, she says — "it's a selection process."
"People are always looking for reasons they didn't get in," she continues. "You can't always know what those reasons are. Sometimes during the admissions process they say, 'There's nothing wrong with that kid. We just don't have room.'"
In the end, elite colleges often don't have room for Asian students with outstanding scores and grades.
That's one reason why Harvard freshman Heather Pickerell, born in Hong Kong to a Taiwanese mother and American father, refused to check any race box on her application.
"I figured it might help my chances of getting in," she says. "But I figured if Harvard wouldn't take me for refusing to list my ethnicity, then maybe I shouldn't go there."
She considers drawing lines between different ethnic groups a form of racism — and says her ethnic identity depends on where she is.
"In America, I identify more as Asian, having grown up there, and actually being Asian, and having grown up in an Asian family," she says. "But when I'm back in Hong Kong I feel more American, because everyone there is more Asian than I am."
Holmes, the Yale sophomore with the Chinese-born mother, also has problems fitting herself into the Asian box — "it doesn't make sense to me."
"I feel like an American," she says, "...an Asian person who grew up in America."
Susanna Koetter, a Yale junior with an American father and Korean mother, was adamant about identifying her Asian side on her application. Yet she calls herself "not fully Asian-American. I'm mixed Asian-American. When I go to Korea, I'm like, blatantly white."
And yet, asked whether she would have considered leaving the Asian box blank, she says: "That would be messed up. I'm not white."
"Identity is very malleable," says Jasmine Zhuang, a Yale junior whose parents were both born in Taiwan.
She didn't check the box, even though her last name is a giveaway and her essay was about Asian-American identity.
"Looking back I don't agree with what I did," Zhuang says. "It was more like a symbolic action for me, to rebel against the higher standard placed on Asian-American applicants."
"There's no way someone's race can automatically tell you something about them, or represent who they are to an admissions committee," Zhuang says. "Using race by itself is extremely dangerous."
Hsu, the physics professor, says that if the current admissions policies continue, it will become more common for Asian students to avoid identifying themselves as such, and schools will have to react.
"They'll have to decide: A half-Asian kid, what is that? I don't think they really know."
The lines are already blurred at Yale, where almost 26,000 students applied for the current freshman class, according to the school's web site.
About 1,300 students were admitted. Twenty percent of them marked the Asian-American box on their applications; 15 percent of freshmen marked two or more ethnicities.
Ten percent of Yale's freshmen class did not check a single box.

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2011

Agnetha Fältskog - Người đi qua đời (âm nhạc của) tôi

Bạn,

Mới đó mà đã sang tháng mười hai rồi! Lại gần một năm nữa sắp đi qua đời tôi! Tháng mười hai là tháng ngồi lại điểm xem mình đã làm được gì cho mình, cho người thân của mình trong năm vừa qua. Có lẽ, ngoài cái blog ít khi lui tới viếng thăm và post bài mới này, các thứ khác trong đời sống thực đều hanh thông. Ba mẹ mạnh khỏe, vợ chồng con cái việc làm và học hành rất OK, tên bạn thân nhất từ hồi lớp 5 trường Hòa Bình thì mới lên xe bông, chúc mừng chúc mừng ... Kinh tế Hoa Kỳ cũng đang khá lên, bên này bà con Mẽo đi shopping dữ lắm, sắp hàng rồng rắn tối trước ngày Thứ Sáu Đen ...

Tháng 12 cũng là dịp kiểm lại gia tài nhạc xưa, đi lòng vòng xem ABBA, The Beatles, nghe hai đĩa Xmas của The Carpenters, v.v. Mới nhận ra một điều là danh ca Agnetha Fältskog là ca sĩ mà tôi thích nhất trong đời.



Một bức ảnh đẹp của Agnetha, có lẽ chụp vào khoảng 1981, 
khi hát bài The Day Before You Came.


Từ hồi xửa hồi xưa khi một chữ tiếng Anh bẻ đôi cũng không biết, nàng đã làm tôi "head over heels" bằng những khúc nhạc ABBA thân quen như Thank You For The Music, Slipping Through My Fingers, One Of Us, Happy New Year, The Day Before You Came, chúng đã là một động lực không nhỏ để tôi học tiếng Anh coi nàng hát cái chi. Khi ABBA rã đám thì tôi cũng không hay biết, nghe nàng hát với Tomas Ledin bài Never Again mà tưởng ABBA nhận thêm nam ca sĩ, ai biết đâu cái bìa cassette tàu viễn dương chỉ trưng bảng ABBA để lừa người ta dễ mua mà thôi. Sau này cô hát lại mình cũng không biết luôn - cho dù đang ở Mỹ, mãi sau này may mắn quá mua lại được CD The Coloring Book. Bài nào trong đó cũng hay hết, nhất là "If I Thought You'd Ever Change Your Mind". Nghe thật ngọt lịm và đồng cảm. Để biết rằng Agnetha là một ca sĩ hiếm hoi mà tôi yêu nghe giọng hát từ khi còn mười mấy tuổi tới bây giờ, 30 năm sau. Hy vọng sẽ còn được nghe tiếp một vài CD nữa trước khi nàng hoàn toàn giải nghệ. Phải gọi nàng là Bà mới đúng, vì Agnetha cũng 61 tuổi rồi còn gì, thôi thì "kính lão đắc thọ", hihi ..

I would bring you happiness 
Wrapped up in a box and tied with a yellow bow 
I would bring you rainbow skies 
And summer rain to make your garden grow 
And in the winter snow, my songs would keep you from the cold 

I would bring you flowers in the morning
Wild roses when the sun begins to shine
Winter fruits and summer wine
Sweet perfume and columbine
If I thought you'd ever change your mind
If I thought you'd ever change your mind 




Mấy ai có được người bạn đồng hành thủy chung như vậy, đem hạnh phúc gói trong một cái hộp siết lại với cái nơ vàng, đem bầu trời lấp lánh cầu vồng và mưa rào mùa hạ để làm vườn cây xanh tốt, và rồi khi đông đến, hát những bài ca ấm áp làm lòng anh tan đi băng giá!!!

Bjorn (Ulvaeus) ơi là Bjorn, anh thả mồi bắt bóng đó anh có biết không? Nàng Agnetha vẫn thủy chung với tình yêu đầu của nàng, hứa với người tình cũ trăng và sao, với lời giả dụ không thể nào có thực là "nếu em nghĩ là anh sẽ đổi ý ..."

Mà thật chứ, ai tinh ý và nghe lại các bài khác trong CD sẽ biết.


  Các bài nhạc khác trong đĩa nhạc trên:

Đó là vài cảm nghĩ để tôi viết post mới nhất này: Agnetha Fältskog - Người đi qua đời (âm nhạc của) tôi. Nhân tiện, xin bá cáo là gần đây tôi đang tập làm nhạc với GarageBand trên iPad2, cũng zui lắm, hy vọng sẽ có ngày trình làng với các bạn bài composition đầu tiên.

Thân ái chào bạn,

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

Nghĩ quanh quẩn về chủ đề "mưa" trong nhạc phẩm "Mưa Rơi" của nhạc sĩ Phạm Duy

Bạn,

Nhạc sĩ Phạm Duy có biệt tài là lôi những chi tiết, hình ảnh tầm thường ra, đặt chúng lên bàn mổ xẻ, suy nghĩ, chiêm nghiệm. Tôi có thể kể vô số những bài nhạc nổi tiếng chỉ dựa trên những đề tài như vậy: "Đường Chiều Lá Rụng", "Nước Mắt Rơi","Mộng Du", "Chiều Về Trên Sông", hay những bài tôi có đọc lời mà chưa có dịp nghe kỹ lưỡng như "Một Bàn Tay", "Những Bàn Chân", v.v. Về sau này, nhạc sĩ làm ra hẳn những chủ đề riêng như Bé Ca, Nữ Ca, vì một bài thì không thể nói hết được những ý tưởng như "Ông Trăng Xuống Chơi", "Chú Bé Bắt Được Con Công", "Bé Bắt Dế", hay những chi tiết nhỏ nhặt như khói nhóm lửa trong "Đốt Lá Trên Sân", chỉ một ngọn lửa âm ỉ với làn khói trắng thôi mà ông đã mô tả thật tuyệt diệu là:

Khói, khói lên nhỏ nhoi
Khói lên nhẹ hơi, khói lên lả lơi
Khói, khói lên đầy vơi
Khói lên tả tơi, khói lên mù khơi
Khói, khói lên đẹp ngời.


v.v. và v.v.

Theo tôi, sở dĩ có được một "repertoire" đa dạng như vậy là vì nhạc sĩ dám thử lửa, không những thử chỉ một bài, mà đã làm là làm luôn 10 bài. Không những viết Đạo Ca mà sau đó "chơi" luôn cả Tục Ca, không những viết Bé Ca mà còn đảm nhiệm luôn Nhục Tình Ca. Tính cách đó mới thật là của một người nghệ sĩ chân chính, không sợ dư luận mỉa mai hay chê cười, vì "đường ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây." Đó là một tính cách tự đạp đổ những gì mình đã xây ra, và luôn luôn làm mới con đường nghệ thuật của mình, không tự mình lắp con đường phía trước bằng những rào cản từ thành quả mình dày công xây dựng nên.

Trong khi những nghệ sĩ khác tự bó buộc vật liệu sáng tác của mình lại, như danh họa Chuck Close bỏ hết màu, chỉ vẽ tranh đen trắng, Piet Mondrian chỉ vẽ tranh bằng những hình chữ nhật với một lối phối màu nhất định, nhạc sĩ Phạm Duy la cà hết tất cả các chủ đề từ mưa tới nắng, bà già tới em bé, v.v. và v.v. Ai cũng có hay riêng, nhưng một người dám nới rộng địa bàn sáng tác của mình, không chỉ bó buộc trong "thân phận con người" chẳng hạn, thì tôi càng phục tài bội phần.

Nãy giờ nói chuyện lan man, ngắn gọn lại tôi muốn gửi đến các bạn bản nhạc "Mưa Rơi", phát hành trước 1975, rồi sau đó cùng ngồi lại chiêm nghiệm nhạc sĩ đã viết về chủ đề "mưa" ra sao.

***




***

Mời nghe Mưa Rơi - Hồng Hạnh trình bày

***

Mưa Rơi

(Saigon-1960)

Mưa rơi từ nghìn xưa, 
mưa rơi về nẻo mơ
Mưa đem sầu Thiên Thu đến cho ta

Mưa đi từ tuổi thơ, 

mưa theo cuộc tình tơ
Mưa rơi bạc đầu ai mong nhớ ...

mưa.

Mưa rơi từ nguồn xa, mưa tuôn về bao la
Mưa chia dòng lệ ra chín con thơ


Mưa trôi về đời ta, 

mưa xây nhà âm u
Mây giăng vải màn sô nuôi giấc mơ.


Mưa rơi vào lòng ta ! 

Mưa rơi vào tình ta !
Có hay chăng là mưa rơi vì chúng ta.
Mưa rơi, và còn rơi ! 

Không bao giờ mưa ngơi
Không bao giờ ta nguôi yêu người ơi !

Mưa rơi ngoài đường đêm, 

đưa em về nhà em
Mưa vui mừng quấn quýt dưới chân êm


Mưa rơi lạnh trời đen, 

mưa trong lòng lên men
Mưa cho lửa tình thêm chút yếu mềm.


Mưa rơi ngoài hè đêm, như đôi bàn tay tiên
Ru nhe nhẹ một ca khúc không tên


Mưa to nhỏ triền miên, 

mưa trên đầu vô biên
Mây ấp ủ tình duyên thêm vững bền.


Mưa rơi vào lòng ta ! 

Mưa rơi vào tình ta !
Có hay chăng là mưa rơi vì chúng ta.
Mưa rơi, và còn rơi ! 

Không bao giờ mưa ngơi
Không bao giờ ta nguôi yêu người ơi !


***

Khác với nhiều bài đi từ cái riêng đến cái chung, bài này nói quanh co từ thời thượng cổ lan man đến tương lai, từ lúc còn thơ dại cho tới lúc biết yêu, rồi tới khi đi về lòng đất lạnh, lúc nào mưa cũng ở với ta:


Mưa rơi từ nghìn xưa, mưa rơi về nẻo mơ
Mưa đem sầu Thiên Thu đến cho ta

Mưa đi từ tuổi thơ, mưa theo cuộc tình tơ
Mưa rơi bạc đầu ai mong nhớ mưa.



Bài nhạc này nếu để ý bạn sẽ thấy có bao nhiêu câu là có bấy nhiêu chữ mưa, do đó chữ mưa chiếm ít nhất 15% tổng số chữ của bản nhạc! Vì sao vậy, vì ai ở Sài gòn rồi thì biết, mưa liên miên, giờ này qua giờ nọ, rơi lộp độp rồi mạnh bạo trên mái tôn, nước mưa tuôn tràn máng hứng nước, lênh láng lòng đường. nếu cộng thêm chữ "rơi" vào nữa thì chắc hai chữ trên chiếm ít nhất 20% số chữ, vậy mới đúng là mưa rơi kiểu Sài gòn, lênh láng từ đầu tới cuối bản nhạc!

Hãy xem tác giả viết đôi dòng về nhạc phẩm "Mưa Rơi":

"Trong thời gian đầu của cuộc tình, tôi soạn những bài xưng tụng tình yêu của chính tôi. Tôi thường đưa người yêu đi học trong khi mưa rơi trên phố xá Saigon ban chiều hay ban đêm. Là vạn cổ sầu của Ðặng Thế Phong, mưa rơi đối với tôi cũng là sầu thiên thu, nhưng còn là hạnh phúc địa đàng nữa..." (Phạm Duy - Ngàn Lời Ca)

Mưa không chỉ là một hình tượng, sự kiện, mưa còn được mô tả thật đẹp như nguồn cung cấp nước vô tận của thiên nhiên cho dòng Cửu Long để nuôi sống Miền Nam nước Việt. Và cũng như mưa, mây được hình tượng hóa thành một vải màn sô giăng lên để nuôi dưỡng những giấc mơ hiền lành và êm đẹp.

Thế rồi, nhạc sĩ đặt câu hỏi:


Mưa rơi vào lòng ta ! 
Mưa rơi vào tình ta !
Có hay chăng là mưa rơi vì chúng ta.


Phải chăng mưa chỉ là điều ngẫu nhiên, không liên can gì đến chúng ta, hay mưa có mục đích là mưa xảy ra là vì chúng ta, là để giúp chúng ta? Câu hỏi này coi bộ khó, vì nó mang tính triết học, nhưng dầu sao đi nữa, câu hỏi đã được bật ra, chúng ta "take it for granted", coi mưa như là "chuyện thường ngày ở huyện", nếu ngày nào đó mưa không rơi nữa thì sao???

Thì nhớ quay quắt về một thời thơ ấu tắm mưa Sài gòn chứ sao nữa! khi nơi chốn Tiểu Sài Gòn mình đang ở hầu như mỗi năm chỉ mưa khoảng mươi, mười lăm ngày là cùng!!! Không bao giờ ta nguôi yêu người ơi ! Với tôi "người ơi" ở đây còn gì khác hơn là những trận mưa hè dai dẳng, là nỗi nhớ Sài gòn xưa không bao giờ nguôi.

Sang đoạn hai,

Mưa rơi ngoài đường đêm, 
đưa em về nhà em
Mưa vui mừng quấn quýt dưới chân êm


Mưa rơi lạnh trời đen, 

mưa trong lòng lên men
Mưa cho lửa tình thêm chút yếu mềm.


Cái này sao tôi thấy coi bộ "đường xa ướt mưa", sao ... anh không ở lại đây .. cho đến hết cơn mưa rồi hẵng zìa???? Mà cứ mưa triền miên dzậy thì làm sao ... zìa đây ???? Cứ đọc thêm đoạn kế tiếp là biết liền, vì mưa rơi ngoài hè đêm, còn mình ở trong nhà mà, mưa trên đầu vô biên không biết bao giờ mới hết ... mưa.

Mưa rơi ngoài hè đêm, như đôi bàn tay tiên
Ru nhe nhẹ một ca khúc không tên


Mưa to nhỏ triền miên, 

mưa trên đầu vô biên
Mây ấp ủ tình duyên thêm vững bền.


***

Vì cả bài nhạc xoay quanh và lặp đi lặp lại chủ đề "mưa" như vậy, theo đúng binh pháp thì nhạc cũng phải xoay quanh một trụ, chứ không được chạy lan man. Trong bài nhạc một dấu giáng này, cái trụ đó không có gì khác hơn là hợp âm Re thứ Dm, mà trong đó nốt chính là nốt chủ âm Re. Trong các bài nhạc, thường thì nhạc có khuynh hướng đi lên, sau đó đi xuống, bài này nói chung cũng không là ngoại lệ, nhưng bạn thấy câu đầu khác cái ở chỗ là nó bắt đầu từ Re, sau đó đi xuống Si và La rồi trở lên lại Re, có lẽ mục đích để theo lời ca bắt nguồn từ nghìn xưa, từ tuổi thơ, trước khi đến thời đểm hiện tại là nốt chủ âm Re trưởng.





Sau đó, nhạc tuần tự như tiến đi theo hợp âm Re thứ từ từ lên nốt Fa, nốt La, rồi đến nốt Si rồi cuối cùng trở về nốt La. Tôi nghĩ mục đích của chuyển động này là tạo cảm giác như cơn mưa dầm dề, lê thê, dâng từ từ



Cái đặc biệt trong nhạc Phạm Duy là bài nào ông cũng tìm cách làm mới lạ hơn các bài đã làm, lần này ông "để" vào một chuyển cung. Trong bài, chỗ chuyển cung đó bất chợt rơi vào giữa đoạn, khi tác giả cho hợp âm "chùng" xuống cả ba nốt Re Fa La một quãng hai (whole step) thành Do Mi b Sol, tức là giới thiệu thêm hai nốt Mi giáng và La giáng vào bài nhạc.



Cái thú vị là nhạc sĩ chỉ chuyển cung một trường canh thôi, sau đó nhạc lại trả về cung Re thứ như cũ, nhưng cũng đủ làm cho ta xốn xang, bồi hồi, hệt như khi ta hít vào mùi ẩm ướt của đất khi được mưa chợt tuôn trào.

Sau khi hát đủ hai phiên khúc, với khoảng cách giữa các nốt cố tình làm cho không lớn hơn quãng 3, nhạc sĩ đã taọ một không khí thật khác lạ bằng cách đẩy các nốt nhạc lên một bát độ, đồng thời tạo nên nhiều quãng lớn (La đến Ré: lòng ta), nghe rõ là quãng bốn hơn vì ở hẳn một bát độ cao hơn, không như ở phiên khúc, hoặc rải nhanh các nốt từ Ré xuống Re chỉ trong 4 nốt (câu: có hay chăng là ..) Đây là thủ pháp làm điệp khúc tương phản rõ nét với phiên khúc, một đằng thì nốt dưới thấp và quãng nhỏ, một đằng thì nốt cao và quãng nhảy lớn.


Cuối cùng, để tri ân và khẳng định lòng yêu thương và biết ơn thiên nhiên thông qua hình tượng mưa, nhạc sĩ cho ta đi lại từ đầu phiên khúc với gần trọn nửa đoạn đầu, chỉ thay đổi ba nốt cuối cao vút lên đến nốt Ré, có lẽ là nốt biểu tượng cho mưa trên đầu vô biên, mây giăng vải màn sô nuôi giấc mơ!



Vì trong điệp khúc cũng có phần lớn phiên khúc, như đã mô tả ở trên, khi hát xong bài ta thấy đoạn nhạc

Mưa rơi từ nghìn xưa, mưa rơi về nẻo mơ
Mưa đem sầu Thiên Thu đến cho ta

được nhắc đi nhắc lại sáu lần, vậy là mưa dầm dề rồi chứ còn gì nữa. Tuy vậy, cú chuyển cung sang Do thứ ở giữa phiên khúc đã làm người nghe không cảm thấy chán nản vì sự lặp đi lặp lại này, ngược lại làm bài nhạc tươi mát hẳn đi.

Bài viết đã khá dài, tôi cũng đã viết xuống hết các ý cần trình bày. Cảm ơn bạn đã ráng đọc bài tới lúc cuối. Hẹn gặp lại bạn trong một lần tản mạn nhạc Phạm Duy khác.

Thân mến,

Hoctro
11.18.11
http://hoctroviet.blogspot.com

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2011

Vài cảm nghĩ về "Kiếp Nào Có Yêu Nhau" Thơ Hoài Trinh Nhạc Phạm Duy

Bạn,

Tiếp tục mạch suy nghĩ về dòng nhạc Phạm Duy, bài nhạc kế tiếp tôi muốn đề cập là bài "Kiếp Nào Có Yêu Nhau", thơ của văn sĩ Minh Đức Hoài Trinh.


 Tôi hỏi và được nhạc sĩ gửi tặng một số nhạc phẩm scan lại từ trước 1975, trong đó có bài này, kể cả trang đầu có bức họa thật đẹp. Mời bạn cùng xem bài thơ, nhạc với notes, và lời bài hát.

***

Kiếp Nào Có Yêu Nhau

Minh Đức Hoài Trinh

Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi .

Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ .

Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở .

Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận ngàn sau
Tình xanh khong lo sợ .

Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi ?


Nguồn: Đặc Trưng

***




***

"Kiếp Nào Có Yêu Nhau" 

Thơ Hoài Trinh
Nhạc Phạm Duy

Đừng nhìn em nữa anh ơi
Hoa xanh đã phai rồi
Hương trinh đã tan rồi


Đừng nhìn em, 

đừng nhìn em nữa anh ơi
Đôi mi đã buông xuôi, 

môi răn đã quên cười.

Hẳn người thôi đã quên ta
Trăng Thu gẫy đôi bờ
Chim bay xứ xa mờ.


Gặp người chăng, 

gặp người chăng, 
nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ 

đêm sâu gối ơ thờ.

Kiếp nào có yêu nhau
Thì xin tìm đến mai sau
Hoa xanh khi chưa nở
Tình xanh khi chưa lo sợ
Bao giờ có yêu nhau
Thì xin gạt hết thương đau
Anh đâu anh đâu rồi?
Anh đâu anh đâu rồi?

Đừng nhìn nhau nữa anh ơi
Xa nhau đã xa rồi, 

quên nhau đã quên rồi

Còn nhìn chi, 

còn nhìn chi nữa anh ơi
Nước mắt đã buông rơi 

theo tiếng hát qua đời
Đừng nhìn nhau nữa... anh ơi!



***

Mời thưởng thức Kiếp Nào Có Yêu Nhau - trình bày: Bác Sĩ Bích Liên - Hòa âm Duy Cường

 ***

Khác với bài "Hoa Rụng Ven Sông" (mà tôi đã lần đầu tập phân tích nhạc Phạm Duy cách đây gần tròn sáu năm), nhạc sĩ chỉ uốn ý có sẵn cho phù hợp với giai điệu, trong bài này ta thấy nhạc sĩ cho thêm nhiều chữ, nhiều chi tiết. Từ:

Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi .


thành cả một nửa của phiên khúc:

Đừng nhìn em nữa anh ơi
Hoa xanh đã phai rồi
Hương trinh đã tan rồi

Đừng nhìn em, 

đừng nhìn em nữa anh ơi
Đôi mi đã buông xuôi, 

môi răn đã quên cười.

Cấu trúc thơ đã được đẽo gọt lại để hợp với cấu trúc nhạc. Tôi đoán rằng nhạc sĩ đã ngân nga được cái motif "Đừng nhìn em nữa anh ơi" và cái motif cân bằng thứ hai là "Hoa xanh đã phai rồi Hương trinh đã tan rồi", và chọn nó làm sườn bài chính của nhạc khúc. Caí cấu trúc này rất logic, nó khởi đầu bằng một câu tán thán với một cung nhạc rải vút lên (appergiated) "Đừng nhìn em nữa anh ơi", rồi chứng minh ngay lời cầu khẩn đó bằng hai câu nhạc tương tự nhau là  "Hoa xanh đã phai rồi" "Hương trinh đã tan rồi". Bạn cũng nên để ý đến cái cách để một cung nhạc trên từng câu nhạc mà tiếng Anh gọi là "slur" (tôi không biết tiếng Việt gọi là gì) gợi ý ca sĩ phải hát liền lạc từng câu nhạc đó, chứ không được ngắt ra nhát gừng.




Sang phần hai của phiên khúc, ta thấy nhạc sĩ đã làm tăng kich tính của câu nhạc bằng cách kheó léo nhắc lại motif nhưng với một biến thể là thêm vào ba nốt Đừng nhìn em (Là Mi Lá) trước khi lên đến nốt Mí rồi trả lại nốt Ré. Rất phù hợp với lời nhạc có tính cách van xin, vì có ai van xin một câu rồi thôi? Bạn thử hát đoạn hai, nhưng bỏ bớt ba chữ đầu, chỉ hát "Đừng nhìn em nữa anh ơi", bạn sẽ thấy bài nhạc kém hay hẳn đi.

Vì cấu trúc nhạc đã xác định, nhạc sĩ phải điền vào hai chi tiết mới là "Đôi mi đã buông xuôi," "môi răn đã quên cười" để làm câu nhạc đối xứng với nửa đoạn ở trên.

Đoạn phiên khúc thứ hai cũng vậy, từ:

Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ .


Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở .


Nhạc sĩ đã xắp xếp, thêm bớt chữ để đoạn trở thành

Hẳn người thôi đã quên ta
Trăng Thu gẫy đôi bờ
Chim bay xứ xa mờ.


Gặp người chăng, 

gặp người chăng, 
nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ 

đêm sâu gối ơ thờ.

Tiếp theo, trong điệp khúc, tiết tấu đã thay đổi từ


thành

tạo một cảm giác khang khác tuy cách dùng 4 móc đơn vẫn là cách dùng chính của bài nhạc.

Điệp khúc cũng cho thấy, đôi khi chả cần suy nghĩ nhiều, chỉ cần dùng lại ý nhạc trước, vốn dĩ đã hay rồi, và lặp lại nguyên xi là ta sẽ có một câu nhạc hay. Bạn thấy trường canh sau y hệt trường canh đầu.


Sự lặp lại không chỉ có trong nhạc, mà cũng còn trong lời nhạc nữa. Bài thơ không có sự lặp lại này.






Đó, bạn thấy đó, phổ từ thơ thành nhạc khó lắm chứ đâu phải là thấy một bài thơ hay, rồi thêm nốt vào, ê a là xong bài nhạc, như tôi đã và đang sampling hằng hà sa số trên thế giới ảo này?


Hẹn bạn kỳ tản mạn sau.


Hoctro
11.15.2011

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

Vài cảm nghĩ về nhạc phẩm "Rong Ca 1 - Người Tình Già Trên Ðầu Non" của ns Phạm Duy

Bạn,

Lang thang trên mạng, suy nghĩ về thân phận mong manh của con người, tôi dừng lại trước một bài hát mà tôi luôn ngưỡng mộ, nhưng đã không bỏ vào trong trang Phạm Duy - Những Tình Khúc Của Một Đời Người do chính tôi làm HTML và đăng trên trang phamduy.com circa 2004.



Bài này là bài đầu tiên cùa mười bài Rong Ca, mà tôi đã mua CD khoảng năm 1999-2000, khi chưa được tiếp xúc làm quen với anh Cường và Bác Duy.


Rong Ca 1
Người Tình Già Trên Ðầu Non
(Hoá Sinh)


(Cựu Kim Sơn-Tháng Giêng 88)


Người tình già trên đầu non
Tuyết đã tan trên vai mỏi mòn
Giữa đám mây xanh xao chập chờn
Nhìn mặt trời thoi thóp hoàng hôn
Người tình già trên đỉnh khơi
Muốn lãng quên trăm năm một đời
Nhưng dưới thế gian mông mênh vời vợi
Người chợt nghe tiếng em chờ đợi.
ÐIỆP KHÚC
'' Người tình già trong lẻ loi
Có nhớ thương.... ai ? ''

Người tình già nghe lời kêu
Lững thững đi trên con đường chiều
Xuống lũng sâu, leo qua ngọn đèo
Về một miền phơn phớt cỏ nâu
Người tình còn nhớ tuổi son
Cúi xuống hôn bông hoa thật gần
Nghe suối vẫn reo trong hang rì rầm
Người tưởng nghe tiếng em thì thầm...
ÐIỆP KHÚC
'' Ðợi người tình đã từ lâu
Vẫn khát khao... nhau ''

Người từng là nắng mùa Xuân
Ðã dắt em đi trên đường trần
Ðã vuốt ve em trong Hạ mềm
Rồi lạnh lùng Thu đến... lìa em
Người trở thành cây mùa Ðông
Lá úa rơi vun cao cội nguồn
Nhưng cuối bước đi trăm năm một lần
Ðầu cành khô bỗng hoa nở tràn
ÐIỆP KHÚC
Người tình vào cuộc tử sinh
Sống chết lung... linh.

Thành người tình đang trẻ ngây
Sẽ đứng lên mê say từng ngày
Cất bước Xuân đi qua Hạ dài,
Người hẹn người leo thế kỷ chơi
Một đời người trong tầm tay
Sống với nhau hơn ba vạn ngày
Xin cố gắng nuôi sao cho tình đầy
Chẳng vì Thu với Ðông, ngần ngại
ÐIỆP KHÚC
Và người tình ngoảnh về non
Hát khúc Xuân... sang.
CODA
Rồi hẹn rằng sẽ về thăm
Lúc đã trăm... năm
Và người tình sẽ từ khơi
Xuống núi vui... chơi
Rồi lại từng thế kỷ sau
Cứ hoá sinh... theo.

***

Người tình già trên đầu non
Tuyết đã tan trên vai mỏi mòn
Giữa đám mây xanh xao chập chờn
Nhìn mặt trời thoi thóp hoàng hôn

Chỉ với bốn dòng, ns Phạm Duy đã mô tả rất tài tình một khung cảnh bao la vời vợi, của một người tình già đứng một mình trên đỉnh núi, nhìn về phương trời xa, nơi ánh dương đang lụi tàn, hệt như đời mình sắp đi vào chung cuộc. Nơi ta đứng cô đơn quá, vì chỉ có ta với ta mà thôi, ân oán giang hồ, vinh nhục cũng đã nhiều, hiểu ta cũng chẳng có ai khác, ngoài ánh dương cũng đang lụi tàn, thoi thóp, hoặc đám mây xanh xao chập chờn ...


Người tình già trên đỉnh khơi
Muốn lãng quên trăm năm một đời
Nhưng dưới thế gian mông mênh vời vợi
Người chợt nghe tiếng em chờ đợi.

Cô đơn quá, cả ba câu tiếp theo cũng vẫn cái mênh mông, mê mê tỉnh tỉnh giữa sống và chết, mộng và thực đó, thì ở câu cuối người tình già chợt thấy lóe lên một niềm hy vọng: Em. Em ở đây thật có nhiều nghĩa: người vợ, những người tình cũ, âm nhạc và nàng Thơ, cuộc đời với những vinh nhục, followers/(likes:-) ... tất cả quyện lấy nhau tạo một niềm hy vọng nơi người tình già.

' Người tình già trong lẻ loi
Có nhớ thương.... ai ? ''

Đấy, các followers hỏi  người tình già có còn nhớ đến họ chăng, nàng thơ năm xưa hỏi ông có còn nhớ đến "vạt tóc nâu xưa, từng cánh hoa khô" hay không, và Chị Hằng thì hỏi thăm Chú Cuội vẫn còn quên đường về dương gian hay không?

Ánh trăng vàng
Bên người đẹp yêu chồng
Khúc Nghê Thường
Quên đường về dương gian (Chú Cuội
- Phạm Duy)

 Đoạn lời nhạc tiếp theo là một tiếp nối của Cỏ Hồng khi xưa:  

Em ơi ! Ðây con đồi dài, 
như bao nhiêu mộng đời 
Nghiêng nghiêng nghe mặt trời yêu đương. (Cỏ Hồng - Phạm Duy)

Cũng với tâm thức "rũ áo nơi đô thành" ấy, lần này người tình già đã

... nghe lời kêu
Lững thững đi trên con đường chiều
Xuống lũng sâu, leo qua ngọn đèo
Về một miền phơn phớt cỏ nâu
Người tình còn nhớ tuổi son
Cúi xuống hôn bông hoa thật gần
Nghe suối vẫn reo trong hang rì rầm
Người tưởng nghe tiếng em thì thầm...

Ta với đời vẫn còn nợ nhau nhiều đấy chứ, dẫu tạ ơn đời bao nhiêu vẫn chưa đủ.Vậy nên chăng ta vẫn còn khát khao nhau?

'' Ðợi người tình đã từ lâu
Vẫn khát khao... nhau ''

Tôi vẫn thường khâm phục những nhạc sĩ viết trọn bốn mùa trong một bài hát, một đoạn hát, hay một concerto, nhưng tôi vẫn khâm phục cách viết của ns Phạm Duy nhất, khi bốn mùa được gói trọn trong một phiên khúc, cùng ẩn tàng thật nhiều ý nghĩa:

Người từng là nắng mùa Xuân
Ðã dắt em đi trên đường trần
Ðã vuốt ve em trong Hạ mềm
Rồi lạnh lùng Thu đến... lìa em
Người trở thành cây mùa Ðông
Lá úa rơi vun cao cội nguồn
Nhưng cuối bước đi trăm năm một lần
Ðầu cành khô bỗng hoa nở tràn

 Trong cái chết, dậy lên Sự Sống mãnh liệt của những nụ hoa nở tràn, hệt như trong bài diễn văn của Steve Jobs: "bởi chưng Sự chết là sáng chế tuyệt vời, độc nhất vô nhị của Sự sống. Nó là tác nhân làm thay đổi Sự Sinh Tồn. Nó dẹp bỏ đi những gì cũ kỹ để dọn chỗ cho cái mới tiếp vào." Giời ạ! Nhìn qua bên phải bên trái, chỗ nào cũng có tí Thiền, thế lày là thế lào?


Vâng, theo luật tử sinh, luân hồi thì ai cũng sẽ thành một kiếp sống khác, cỏ cây hay thú vật, và lại một "bốn mùa" thật tuyệt diệu khác nữa của nhạc sĩ, kể cả vòng kim cô luân hồi đã báo trước với "Hát khúc Xuân... sang" ở cuối câu.



Thành người tình đang trẻ ngây
Sẽ đứng lên mê say từng ngày
Cất bước Xuân đi qua Hạ dài,
Người hẹn người leo thế kỷ chơi
Một đời người trong tầm tay
Sống với nhau hơn ba vạn ngày
Xin cố gắng nuôi sao cho tình đầy
Chẳng vì Thu với Ðông, ngần ngại
 ...
Và người tình ngoảnh về non
Hát khúc Xuân... sang.

Từ cõi khơi chừng, một chữ làm nên một cuộc đối thoại âm nhạc hy hữu, nhạc sĩ Phạm Duy cố gắng hứa với đời rằng sẽ thỉnh thoảng về thăm,


Rồi hẹn rằng sẽ về thăm
Lúc đã trăm... năm
Và người tình sẽ từ khơi
Xuống núi vui... chơi
Rồi lại từng thế kỷ sau
Cứ hoá sinh... theo.

 Trong cả bài nhạc, duy nhất chỗ này theo tôi là chỗ hơi gượng ép, tuy rất phóng khoáng. Tôi cảm thấy bài nhạc sẽ hay hơn nếu người tình già đừng hứa như vậy. Kết có hậu quá. Tôi mà viết đoạn đó, tôi sẽ cho người tình già đi chơi những cõi khác như Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu luôn, thiếu gì những chỗ khác để thăm, và khỏi thèm nghe những lời đường mật rủ rê về thăm chốn cũ. Hóa Sinh thì trời bắt đi đâu phải đi đó, chứ đâu có quyền chọn, quyền hứa :-) Nhưng tôi đâu phải là người tình già? Nên tôi cũng không thể trách người tình già, tôi chỉ biết tạ ơn đời, tạ ơn người tình già đã cho tôi biết một dòng nhạc kiệt xuất, để tôi có thể ngân nga trong trí tưởng mỗi khi chiêm nghiệm về cuộc sống.

Hẹn bạn kỳ tản mạn sau.

Hoctro
http://hoctroviet.blogspot.com/
11.13.11


Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2011

Vài suy nghĩ về "Steve Jobs", sách của Walter Isaacson

Bạn,

Cuối cùng thì tôi cũng đọc xong từ cover tới cover quyển "Steve Jobs" dài gần 600 trang, sách có nhiều điều thật thú vị. Steve thật là một người "charismatic", có một cá tính thật lạ kỳ, đúng là một nhân vật có một không hai.

Sách có nói về sự nuối tiếc của Steve đã không làm quyết định đúng đắn là mổ ngay sau khi tìm thấy cancer ở tụy tạng, mà chờ tới 9 tháng sau, khi đó thì các tế bào ung thư đã lan ra ở các vùng lân cận. Cùng cái cách suy nghĩ là không cho mở các thiết bị như iPod, iPad, v.v. Steve ngần ngại tới 9 tháng và không cho "mở" cơ thể mình ra để làm phẫu thuật. Thật là tự hại mình.

Trong lúc đọc sách thì tôi cũng hay "query" google để tìm bài viết hay, thì thấy có bài viết này: The Tweaker The real genius of Steve Jobs by Malcolm Gladwell. Đại loại là bài viết nói là Steve chỉ có giỏi ở chỗ biết thêm thắt, chế biến từ các thứ có sẵn rồi cải tiến nó thành tuyệt hảo.


Theo thiển ý, bài viết đó quá đáng. Nếu có hai điều làm tôi phục Steve nhất, thì thứ nhất là ở chỗ Steve đã hoàn toàn sáng tạo ra công ty Apple từ home garage với người bạn Wozniak. Trong khi Woz chỉ nghĩ đến chuyện cho software free, thì Steve nghĩ đến chuyện đóng gói và bán kiếm lời. Điều thứ hai làm tôi khâm phục là Steve đã trở về (sau khi bị giáng chức), và vực Apple dậy từ bờ vực phá sản, trở thành hãng software+hardware lớn nhất thế giới, vượt qua cả Microsoft. Bạn có biết là 15 năm từ khi Steve về lại Apple, Steve chỉ lấy 1$ tiền lương mỗi năm? http://money.cnn.com/galleries/2011/technology/1111/gallery.1_dollar_tech_executives/ . Bẩy tỉ Mỷ kim Steve có là do bán Pixar cho Disney, mà Pixar cũng là do Steve sáng tạo hoàn toàn, khi mua lại công ty nhỏ chuyên làm hardware và software cho computer graphics, chứ lúc đó chưa làm phim hoạt hình.

Tôi có một lý thuyết sau: vì Steve coi Apple như đứa con tinh thần lớn lao nhất của mình, tới khi gần qua đời mà vẫn lo tạo khu building mới cho Apple từng chi tiết nhỏ, nên chúng ta có thể nói Steve là một nhà sáng tạo tuyệt vời nhất, vì đã tạo không gian và con người để sáng tạo những đồ dùng iPad, iPhone, v.v. cho thế hệ này và các thế hệ nhân viên tiếp nối. Vì nghĩ là đời sống còn dài, ông không dành nhiều thời gian cho việc làm từ thiện như Bill Gates, thay vào đó ông chỉ chăm chút cho Apple của ông thôi. Thật buồn là Ông đã nửa đường gãy gánh, nếu không chúng ta sẽ còn thấy và hưởng những hướng đi và phát minh dưới tài điều khiển của ông ra sao. Một người chỉ nhận $1 và ít bonus, không như các CEO khác chỉ lo kiếm bonus làm giàu lẹ, không thể nào là người khắt khe về tiền bạc và thiếu tình nhân ái được. Theo như tin tôi đọc trên web, hãng Apple dưới sự quản trị của Tim Cook, đã tăng mức tối đa lên 10000$, tặng từ thiện dưới hình thức "matching" đóng góp của nhân viên. Thí dụ tôi là nhân viên Apple và đóng từ thiện 10000$, thì Apple sẽ bỏ vào 10000$ trong quỹ đó cho bạn. (Đây cũng là cách tôi đóng từ thiện hàng năm qua United Way, nhưng hãng tôi chỉ match 50% thôi, ví dụ tôi đóng 100$ thì hãng cho thêm 50$. Tôi khoái cách này, vì tự nhiên có thêm tiền đóng góp cho quỹ mình thích.)

Wow, trước khi xem sách tôi chẳng biết nhiều về Steve, còn bây giờ tôi thấy tôi học thêm được nhiều điều quá. Quyển sách rất trung thực trong cách mô tả tính cách của Steve, đầy đủ giận ghét, mưu toan, tình cảm,v.v thật là một cuốn sách đáng được xem đi xem lại.

Hoctro
11.12.11

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

11.11.11 - Vài cảm nhận nhỏ về bài "Cho Nhau"

Tôi post vội một post nhanh trước khi đi làm. hôm nay thật là ngày đặc biệt, 100 năm mới có một lần: sáu con số một, lần trước là 11.11.1911.

Have a great day!

***




***

CHO NHAU

Cho nhau chẳng tiếc gì nhau
Cho nhau gửi đã từ lâu
Cho nhau cho lúc sơ sinh ngày đầu
Cho những hoa niên nhịp cầu
Ðưa tuổi thơ đến về đâu ?
Cho nhau nào có gì đâu !
Cho nhau dù có là bao
Cho nhau cho phút yêu đương lần đầu
Cho rất luôn luôn cuộc sầu
Cho tình cho cả niềm đau.
Cho nhau làn tóc làn tơ
Cho nhau cả mắt trời cho
Cho nhau tiếng khóc hay câu vui đùa
Cho chiếc nôi cho nấm mồ
Cho rồi xin lại tự do.

Cho nhau ngòi bút cùn trơ
Cho nhau đàn đứt đường tơ
Cho nhau cho những câu thơ tàn mùa
Cho nốt đêm mơ về già
Cho cả nhan sắc Nàng Thơ.
Cho nhau tình nghĩa đỏ đen
Cho nhau thù oán hờn ghen
Cho nhau, xin nhớ cho nhau bạc tiền
Cho cõi âm ty một miền
Cho rồi cho cả đời tiên.
Cho nhau này dãy Trường Sơn
Cho nhau cả bốn trùng dương
Quê hương xin vẫn cho nhau như thường
Cho dứt tay chia đôi đường
Cho rồi, xin chẳng còn vương !

 ****

Trước và sau đợt tình khúc tìm nhau, dìu nhau, kiếp nào có yêu nhau, đừng xa nhau... tôi còn soạn thêm dăm ba bài hát trước khi chúng tôi xa nhau. Trước hết là bài CHO NHAU. Trong bài này tôi muốn được dâng cho người yêu tất cả, không thiếu một thứ gì, chỉ xin giữ lại một điều: đó là sự tự do cho nhau. (Nhạc Sĩ Phạm Duy)

Trích từ Phạm Duy Tổng  Quát - Chương Tiếp Tục Ði Tiếp Tục Yêu

***

Bài nhạc này là một bài được xếp vào loại nhạc tình theo như lời tác giả, nhưng khi đọc kỹ tôi thấy nó áp dụng cho tất cả mọi thứ tình cảm trên đời này. Tình yêu thương Bố Mẹ, người vợ hiền và con cái, thương anh em trong nhà cũng như bạn bè, đồng loại, tình thương thiên nhiên, với một tấm lòng bao dung, yêu mà không cần được yêu lại. Thật ra mà nói, lời nhạc của bài này thật nhẹ nhàng mà cũng thật thâm trầm, mỗi chi tiết đi từ cái khởi đầu đến cái tận cùng: Cho chiếc nôi cho nấm mồ. Và tiếp theo là một nghịch lý: Cho rồi xin lại tự do. Trước đó, phải kể đến một khởi thủy đến tận cùng khác:  

Cho nhau cho lúc sơ sinh ngày đầu
Cho những hoa niên nhịp cầu 

Ðưa tuổi thơ đến về đâu ?

Cho nhau, cũng là một lời căn dặn chỉ cho nhau tình nghĩa, chứ chẳng nên cho bạc tiền, vì nó sẽ kéo theo cả một trùng trùng bể khổ: 

Cho nhau, xin nhớ cho nhau bạc tiền 
Cho cõi âm ty một miền 
Cho rồi cho cả đời tiên.

Rồi sau rốt:

Cho nhau này dãy Trường Sơn
Cho nhau cả bốn trùng dương
Quê hương xin vẫn cho nhau như thường
Cho dứt tay chia đôi đường
Cho rồi, xin chẳng còn vương !


Tại sao tôi đã cho những người ở lại cả mảnh đất Mẹ để dứt lòng ra đi, mà hai chục năm sau vẫn còn vương vấn với những dòng chữ Việt, những lời nhạc Việt, với suy nghĩ và cảm tính Việt, trong khi hằng ngày thì nói và viết bằng Anh ngữ, chỉ trừ khi thỉnh thoảng tán dóc với đồng nghiệp người Việt ngồi gần bên?  Tại sao tôi đã dứt tay chia đôi đường, thậm chí không muốn trở về vì Sài thành chẳng còn gì như năm xưa, trước Nhà Hát Thành Phố thì có hai bà tây ngực trần, Givral thì đã bị đóng cửa, v.v. và v.v. ? Có lẽ là vì tôi còn quá sợ hãi vì những gì đã xảy ra cho gia đình tôi, bên nội thì di tản, bên ngoại thì tù cải tạo, v.v và v.v. Tôi vẫn còn hãi sợ vì sự cho lại của họ.

Nhưng ... Đã cho rồi, sao vẫn còn vương? chắc tôi còn tự hỏi câu đó dài dài ...




Chúc bạn một cuối tuần vui vẻ.

hoctro
11.11.11

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Steve Jobs - One Last Thing (Phim tư liệu mới nhất 2011 của PBS về cuộc đời của Steve Jobs)

Bạn,

Tôi vừa xem xong phim tư liệu mới nhất của PBS với tựa đề Steve Jobs: One Last Thing. Phim hay và cảm động.

http://video.pbs.org/video/2163706349



Video preview:


http://www.pbs.org/programs/steve-jobs-one-last-thing/



Sau đây là một video liên can, trong đó tác giả quyển Steve Jobs nhận định về sự nghiệp của Steve. Tôi đọc xong 360 trang quyển ấy, tức khoảng 60%, tới chỗ ông đang dự tính mở Apple Stores. Chắc cuối tuần này thì tôi coi xong. Sách hiện đang dẫn đầu số lượng người mua: 379,000 bản.




Ngày hôm nay cũng là một ngày rất hiếm 11.02.2011, nên tôi post thêm 1 cái lúc 11g đêm tối để lấy hên trước khi sang ngày mới.

Hoctro.
11022011

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

Adagio in G minor ("Albinoni's Adagio") by Lara Fabian

Bạn,

Hí hí, hôm nay là ngày có 5 cái số một (1-11-11), hoctro thấy nên post một cái lên làm vốn, 10 ngày sau tái nạm bạn đọc thêm một post nữa, nhiều khi vận số sẽ hên thêm chăng?

Tình cờ hôm rồi đi vòng vòng YouTube thăm các ca sĩ Pháp, thấy bài Adagio này hay quá! Hay là ở chỗ tôi nghe hoài hủy bài này qua ban nhạc Paul Mauriat cũng như của các ban nhạc khác, nhưng giờ nghe nhạc có lời, lại do superstar Lara Fabian hát thì thật là hết sảy. Xem kỹ lại trên Wikipedia http://en.wikipedia.org/wiki/Adagio_in_G_minor thì càng thấy một chi tiết lạ nữa. trước giờ tôi cứ tưởng nhạc là nhạc gốc của thời Baroque Ý, hóa ra bài soạn chỉ dựa trên vài trường canh đầu tìm thấy được sau thế chiến II của Tomaso Albinoni, sau dó cả bài được hoàn chỉnh bởi Remo Giazotto, là người viết tiểu sử cho Albinoni





Tôi thích cái cảnh quay từ trái qua phải trong khi bức tranh vẽ kiểu pointillism cuối thế kỷ 19 (Un dimanche après-midi à l'Île de la Grande Jatte - 1884)của danh họa Georges Seurat lại hóa ra là người thiệt, hai người đàn ông đàn bà nhìn theo (looking on) camera, thấy rùng mình.

Nhạc này đúng là nhạc "cao trào" từ từ dâng lên đến đình điểm (climax), cuối cùng làm chậm lại và kết ở chữ Adagio) Bài nhạc này cũng theo loại "em nhớ anh, anh nhớ em, chúng mình nhớ nhau" thành ra có lẽ, như Leaqua có đề cập, đúng là nhạc Anh ngữ nó cũng chỉ loanh quanh với các ý tưởng như vậy chăng???

Sau đây là bản với lời Anh ngữ kèm theo




Adagio

(Lara Fabian)

I don’t know where to find you
I don’t know how to reach you
I hear your voice in the wind
I feel you under my skin
Within my heart and my soul
I wait for you
Adagio

All of these nights without you
All of my dreams surround you
I see and I touch your face
I fall into your embrace
When the time is right I know
You'll be in my arms
Adagio

I close my eyes and I find a way
No need for me to pray
I’ve walked so far
I've fought so hard
Nothing more to explain
I know all that remains
Is a piano that plays

If you know where to find me
If you know how to reach me
Before this light fades away
Before I run out of faith
Be the only man  to say
That you'll hear my heart
That you'll give your life
Forever you'll stay

Don't let this light fade away
No no no no no no no
Don't let me run out of faith
Be the only man to say
That you believe
Make me believe
You won't let go
Adagio

***

Còn đây là bản của Paul Mauriat mà tôi rất hay nghe:






****

Bonus: tôi vừa tìm thấy trên mạng bài này, hồi còn nhỏ tôi rất thích:



Đúng là âm nhạc làm người ta yêu đời và ít già thiệt! Cô gái nhí nhảnh thời 60' bây giờ nhìn cũng đâu già thêm bao nhiêu đâu, bạn thấy không?



Xem thêm các bài khác ở link sau:

http://hoctroyoutube2010.blogspot.com/2011/11/easy-listening-music-from.html

Hoctro
1-11-11

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

Steve Jobs by Walter Isaacson

Bạn,

Suốt hai tuần nay tôi cứ mong chờ tới ngày mua cuốn sách nói về cuộc đời của Steve Jobs. Tối thứ hai ghé qua nhà sách lấy cuốn đã đặt, về nhà đọc tà tà một ngày rưỡi nay đã được 60 trang, xong phần niên thiếu, và đang tới chỗ chàng ta cùng với Woz lập công ty Apple.

Trước đó tối Chủ Nhật thì đài CBS đã quảng cáo đầy đủ bằng chương trình 60 minutes, phỏng vấn tác giả Walter Isaacson. Ông này cũng là nhà báo kỳ cựu, từng là chủ bút (Editor-in-chief?) của cả CNN lẫn tờ Time.

http://www.cbsnews.com/video/watch/?id=7385704n&tag=contentMain;contentAux

iTunes cũng có đăng video vinh danh cuộc đời của Steve Jobs, dài gần một tiếng rưỡi ở link sau.

 http://events.apple.com.edgesuite.net/10oiuhfvojb23/event/index.html

 Riêng tôi, ngoài quyển sách nói trên, cũng mua thêm 3 tạp chí và một quyển sách tìm hiểu về cách Steve điều khiển hãng Apple.






Trở lại quyển sách, tôi thấy mặc dù chỉ mới đọc 60 trang, tôi rất thích văn phong của ông Isaac cũng như các chi tiết ông viết đến trong bài. Mặc dù tôi đã quen thuộc với một số chi tiết trong cuộc đời của Steve (qua việc dịch lại bài diễn văn ra trường ở Stanford của ông), quyển sách cho tôi thêm thật nhiều chi tiết. Có thể nói mỗi câu trong bài diễn văn có thể chuyển dễ dàng thành một vài trang với nhiều chi tiết rất mới. Tôi dự định sẽ đọc cover-to-cover và không bỏ sót, hay xem trước chương nào hết.

Báo NY Times có một bài điểm sách rất thú vị:

http://www.nytimes.com/2011/10/22/books/steve-jobs-by-walter-isaacson-review.html?pagewanted=all

Hy vọng nhà xuất bản nào ở Việt Nam cũng sẽ tìm cách dịch lại quyển này một cách trung thực và sát nghĩa, và không kiểm duyệt chi tiết. Ngay cả Steve cũng không đọc trước hay kiểm duyệt những gì ông Isaac đã viết, chỉ muốn sửa cover thôi. Kết quả là trang bìa thật đẹp và đơn giản, theo hệt cách thiết kế của Steve.

Thân mến chào bạn,

Hoctro
10/26/11

***

Bạn,

Định làm post mới, nhưng thôi gom lại các cảm nhận của mình trong một post cho nó gọn, để sau này tìm lại thì biết chúng nằm cùng một chỗ, hihi ...

My goodness! cuộc đời của Steve Jobs là một mớ bòng bong, quá phức tạp. Ông ta là một bully hạng nặng, có thể gọi là bully nhất trong dân bully! Team cùng ông thiết kế máy McIntosh phải chế ra một thuật ngữ để giải thích "hiện tượng" đó : "the reality distortion field", dựa theo một concept trong một episode của phim truyền hình Star Trek. Ông có tài thuyết phục người cùng làm việc làm theo ý tưởng của ông, dù ý tưởng đó không thể làm nổi, ông cũng nghĩ là nó có thể làm được.

Lần đầu tiên mình thấy thích thú khi đọc sách như vậy, vì quả thật ông Steve quá nổi tiếng và có cá tính thật phức tạp. Giờ mình mới có cái cảm nhận là sống trong cùng thời điểm với một nhân vật nổi tiếng thì tâm trạng khi xem sách báo sẽ như thế nào, và có suy nghĩ cảm nhận ra sao. Thật khác hẳn với 2 cảm nhận trước: thứ nhất là ABBA, nghe nhạc họ lúc tuổi teen, (cùng thời tuy chậm hơn vì vài năm sau nhạc mới tới VN qua đường tàu viễn dương) thì thấy rất hay, nhưng không hiểu lời, không có sách báo để xem vì bị bức tường đỏ chặn kín. Thứ hai là The Beatles, tuy có cảm nhận nhạc của họ, và có đủ sách báo để nghiên cứu trong 5 năm qua, nhưng mình bị những cảm nghĩ của người viết chi phối vì nói về những sự việc xảy ra từ 40 năm trước, khi chưa chào đời. Lần này thì khác, mình có tậu hai cái iPod, chuẩn bị mua cái thứ ba, dùng iTunes thường xuyên để sắp xếp nhạc, cũng như nghe các tin tức về iPhone, iPad thường xuyên, nên có thể đánh giá và chọn lựa mua cái nào, bỏ cái nào.

Dùng đồ Steve làm, đâu có biết đằng sau mấy người thiết kế nhân viên của Steve phải chịu khổ sở vì bị chửi là "shit head" hay được khen nở mũi ra sao. Rồi cũng biết thêm là Steve chịu ảnh hưởng của cách design Bauhaus. Rồi, tôi lại sắp tốn thêm tiền mua sách và bỏ thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu tôn chỉ và cách sáng tạo của lối design này rồi ....

Nói tóm lại là nếu bạn ở Mỹ hay châu Âu và có cách mua được quyển này, thì nên tậu về nhà coi, bảo đảm sẽ vừa ý.


***

Coldplay and Norah Jones Play at Memorial for Jobs


***

Oct 29, 2011: Hôm nay tôi đọc được một bài điểm sách hay quá, mang về đây để dành, có thì giờ sẽ tính chuyện dịch.

'Steve Jobs' review: Walter Isaacson's biography mesmerizes

By Richard Rayner, Special to the Los Angeles Times

October 28, 2011

He was an abandoned child who grew up with the unshakable belief that he was destined to be a prince. How arrogant and sensible of him.

His personal hygiene was bad. He often wore no shoes and liked to stick his feet in the toilet. His food faddery was so extreme that he sometimes endangered his own health. While in a hospital for a liver transplant in 2009, he refused to wear a medical mask because he couldn't stand the design. His own signature style, which featured jeans and a black turtleneck (Issey Miyake made him a lifetime supply of the latter, which he kept in a closet), was both anonymous and instantly recognizable. He was a control freak and a credit hog who burst into tears when he didn't get what he wanted. He sometimes demeaned his girlfriends and his employees yet such was his charisma that they went on loving him. He lived in a Palo Alto house whose modest scale astounded his rival Bill Gates. He said that he came of age at a magical time, in the early 1970s, when his consciousness was raised by Zen, Bob Dylan, and the drug LSD.

J.P. Morgan or John Rockefeller, in other words, Steve Jobs wasn't. Yet he died with a personal fortune of more than $8 billion (according to Forbes), having been a single-minded pioneer of the PC age, having created and built arguably the world's most famous company, Apple, and having, in some way or another, touched all our lives. He was a visionary as ruthless and driven as any of the great first-generation American capitalists and his story already strikes us as a modern-day fable with a multitude of strange and enchanted details.

Journalist and biographer Walter Isaacson has previously written about Albert Einstein and Benjamin Franklin. Small wonder that Jobs picked him out, and Isaacson gives the Steve Jobs fairy tale a swift, full, and less than utterly flattering airing in a book that Jobs authorized himself and from whose stark white and black Apple-like cover he stares like a Zen digital master.

Jobs personally picked that mesmerizing image, while not having the time, or the health at that point, and maybe not the inclination either, to influence the text as a whole. Again, this is apt. Jobs drove his collaborators insane with his perfectionism yet he enabled them too. He knew the strengths and talents of others and was, for a tantrum-throwing Svengali, surprisingly self-aware. I'd guess that when he died less than a month ago he knew that Isaacson had served him fine.

"The saga of Steve Jobs is the Silicon Valley creation myth writ large: launching a startup in his parents' garage and building it into the world's most valuable company. He didn't invent many things outright, but he was a master at putting together ideas, art, and technology in ways that invented the future," Isaacson writes. "He designed the Mac after appreciating the power of graphical interfaces in a way that Xerox was unable to do, and he created the iPod after grasping the joy of having a thousand songs in your pocket in a way that Sony, which had all the assets and heritage, could never accomplish. Some leaders push innovations by being good at the big picture. Others do so by mastering details. Jobs did both, relentlessly."

That's the nub of the script that Isaacson follows. In assembling it he spent scores of hours with Jobs and interviewed hundreds of other people, including Jobs' widow Laurene; a galaxy of his former girlfriends (among them Joan Baez and the writer Jennifer Egan); Jobs' father by adoption; his blood sister, the novelist Mona Simpson; Apple co-founder Steve Wozniak; Apple design guru Jonathan "Jony" Ive; Gates; Bono; Rupert Murdoch; George Lucas; Yo-Yo Ma; Michael Eisner; Jeffrey Katzenberg; etc., etc.

The list of acknowledged sources is a who's who of shakers and movers, and Isaacson weaves these voices together to guide and flesh out a narrative whose lineaments are already feeling like part of our cultural DNA.

Jobs grows up in suburban Pal Alto with an adopted father he adores and who passes along a love for mechanics and electronics; he becomes a high school geek and freak with a fondness for "King Lear" and "Moby Dick," then a college dropout; travels to India, works for Atari; with his partner Wozniak builds the first Apple computer and makes $100 million before he's 25; plunges like Icarus, losing control of Apple in a July 4 power struggle in 1985; buys Pixar for a song from George Lucas and, with director John Lasseter, turns it into a wildly successful animation brand; gets Apple back and sees the advent of the Net as the conduit along which to build a vertically integrated consumer electronics company, with computers at the hub and a succession of revolutionary new devices — the iPod, the iPhone, and the iPad — as the spokes.

Jobs actually envisions all this, and brings it to pass. His mantras, his secret? Fewer products, better products. As explained to Isaacson: "Deciding what not to do is as important as deciding what to do."

Jobs believed that producing technology requires intuition and creativity, while making art requires rigorous scientific discipline. That was maybe his key insight, and his subsequent mission, Isaacson tells us, was to marry science and art, those two troubled bedfellows, and then market the heck out of them. Like many seemingly simple plans, this was excruciatingly tough to execute, and Isaacson is very good when he takes us behind the scenes and into the nuts and bolts of certain key events: the building of the "Think Different" ad campaign, for instance, or the wondrous launch of the first iMac, or the plotting of the first Apple store, or the moment when, late in the process, Jobs and Ive looked at each other and realized — oops! — the screen on the already developed iPhone was way too small and so scrapped it all and started over.

It's great stuff, and the communicated thrill of work and invention brings "Steve Jobs" to life. Sometimes, as when Bono twitters on about the birth of the snazzy black U2 iPod, pages descend into drooling celeb-chat. Generally, though, Isaacson sidesteps that sinkhole, and if what the reader gets feels like oral history as much as considered biographical judgment, that's actually all to the good. The books asking whether Jobs was really a Da Vinci, or an Einstein, or a Howard Hughes or Citizen Kane are doubtless already trundling down the pipe, but this one will always feel necessary. Its very unmediated quality turns it almost into original source.

"Using an Apple product could be as sublime as walking in one of the Zen gardens in Kyoto that Jobs loved and neither experience was created by worshiping at the altar of openness or by letting a thousand flowers bloom. Sometimes it's nice to be in the hands of a control freak," Isaacson writes. That's pretty fawning, but I guess we can all go along with it at this point. Unlike Morgan and Rockefeller and others of that generation, Jobs was no monopolist and he didn't milk the government. He was less interested in making money than in making beautiful and useful objects that would light up and shape the modern world. Put like that, he does seem a hero.

Rayner's most recent book is "A Bright and Guilty Place: Murder, Corruption, and L.A.'s Scandalous Coming of Age."

Copyright © 2011, Los Angeles Times

***

Lại thêm hai bài viết thật hay của hai nhân vật: em gái của Steve và người viết quyển sách:


A Sister’s Eulogy for Steve Jobs

I grew up as an only child, with a single mother. Because we were poor and because I knew my father had emigrated from Syria, I imagined he looked like Omar Sharif. I hoped he would be rich and kind and would come into our lives (and our not yet furnished apartment) and help us. Later, after I’d met my father, I tried to believe he’d changed his number and left no forwarding address because he was an idealistic revolutionary, plotting a new world for the Arab people.

Even as a feminist, my whole life I’d been waiting for a man to love, who could love me. For decades, I’d thought that man would be my father. When I was 25, I met that man and he was my brother.

By then, I lived in New York, where I was trying to write my first novel. I had a job at a small magazine in an office the size of a closet, with three other aspiring writers. When one day a lawyer called me — me, the middle-class girl from California who hassled the boss to buy us health insurance — and said his client was rich and famous and was my long-lost brother, the young editors went wild. This was 1985 and we worked at a cutting-edge literary magazine, but I’d fallen into the plot of a Dickens novel and really, we all loved those best. The lawyer refused to tell me my brother’s name and my colleagues started a betting pool. The leading candidate: John Travolta. I secretly hoped for a literary descendant of Henry James — someone more talented than I, someone brilliant without even trying.

When I met Steve, he was a guy my age in jeans, Arab- or Jewish-looking and handsomer than Omar Sharif.
We took a long walk — something, it happened, that we both liked to do. I don’t remember much of what we said that first day, only that he felt like someone I’d pick to be a friend. He explained that he worked in computers.

I didn’t know much about computers. I still worked on a manual Olivetti typewriter.

I told Steve I’d recently considered my first purchase of a computer: something called the Cromemco.
Steve told me it was a good thing I’d waited. He said he was making something that was going to be insanely beautiful.

I want to tell you a few things I learned from Steve, during three distinct periods, over the 27 years I knew him. They’re not periods of years, but of states of being. His full life. His illness. His dying.

Steve worked at what he loved. He worked really hard. Every day.

That’s incredibly simple, but true.

He was the opposite of absent-minded.

He was never embarrassed about working hard, even if the results were failures. If someone as smart as Steve wasn’t ashamed to admit trying, maybe I didn’t have to be.

When he got kicked out of Apple, things were painful. He told me about a dinner at which 500 Silicon Valley leaders met the then-sitting president. Steve hadn’t been invited.

He was hurt but he still went to work at Next. Every single day.

Novelty was not Steve’s highest value. Beauty was.

For an innovator, Steve was remarkably loyal. If he loved a shirt, he’d order 10 or 100 of them. In the Palo Alto house, there are probably enough black cotton turtlenecks for everyone in this church.

He didn’t favor trends or gimmicks. He liked people his own age.

His philosophy of aesthetics reminds me of a quote that went something like this: “Fashion is what seems beautiful now but looks ugly later; art can be ugly at first but it becomes beautiful later.”

Steve always aspired to make beautiful later.

He was willing to be misunderstood.

Uninvited to the ball, he drove the third or fourth iteration of his same black sports car to Next, where he and his team were quietly inventing the platform on which Tim Berners-Lee would write the program for the World Wide Web.

Steve was like a girl in the amount of time he spent talking about love. Love was his supreme virtue, his god of gods. He tracked and worried about the romantic lives of the people working with him.


Whenever he saw a man he thought a woman might find dashing, he called out, “Hey are you single? Do you wanna come to dinner with my sister?”

I remember when he phoned the day he met Laurene. “There’s this beautiful woman and she’s really smart and she has this dog and I’m going to marry her.”

When Reed was born, he began gushing and never stopped. He was a physical dad, with each of his children. He fretted over Lisa’s boyfriends and Erin’s travel and skirt lengths and Eve’s safety around the horses she adored.

None of us who attended Reed’s graduation party will ever forget the scene of Reed and Steve slow dancing.
His abiding love for Laurene sustained him. He believed that love happened all the time, everywhere. In that most important way, Steve was never ironic, never cynical, never pessimistic. I try to learn from that, still.
Steve had been successful at a young age, and he felt that had isolated him. Most of the choices he made from the time I knew him were designed to dissolve the walls around him. A middle-class boy from Los Altos, he fell in love with a middle-class girl from New Jersey. It was important to both of them to raise Lisa, Reed, Erin and Eve as grounded, normal children. Their house didn’t intimidate with art or polish; in fact, for many of the first years I knew Steve and Lo together, dinner was served on the grass, and sometimes consisted of just one vegetable. Lots of that one vegetable. But one. Broccoli. In season. Simply prepared. With just the right, recently snipped, herb.

Even as a young millionaire, Steve always picked me up at the airport. He’d be standing there in his jeans.
When a family member called him at work, his secretary Linetta answered, “Your dad’s in a meeting. Would you like me to interrupt him?”

When Reed insisted on dressing up as a witch every Halloween, Steve, Laurene, Erin and Eve all went wiccan.

They once embarked on a kitchen remodel; it took years. They cooked on a hotplate in the garage. The Pixar building, under construction during the same period, finished in half the time. And that was it for the Palo Alto house. The bathrooms stayed old. But — and this was a crucial distinction — it had been a great house to start with; Steve saw to that.

This is not to say that he didn’t enjoy his success: he enjoyed his success a lot, just minus a few zeros. He told me how much he loved going to the Palo Alto bike store and gleefully realizing he could afford to buy the best bike there.

And he did.

Steve was humble. Steve liked to keep learning.

Once, he told me if he’d grown up differently, he might have become a mathematician. He spoke reverently about colleges and loved walking around the Stanford campus. In the last year of his life, he studied a book of paintings by Mark Rothko, an artist he hadn’t known about before, thinking of what could inspire people on the walls of a future Apple campus.

Steve cultivated whimsy. What other C.E.O. knows the history of English and Chinese tea roses and has a favorite David Austin rose?

He had surprises tucked in all his pockets. I’ll venture that Laurene will discover treats — songs he loved, a poem he cut out and put in a drawer — even after 20 years of an exceptionally close marriage. I spoke to him every other day or so, but when I opened The New York Times and saw a feature on the company’s patents, I was still surprised and delighted to see a sketch for a perfect staircase.

With his four children, with his wife, with all of us, Steve had a lot of fun.

He treasured happiness.

Then, Steve became ill and we watched his life compress into a smaller circle. Once, he’d loved walking through Paris. He’d discovered a small handmade soba shop in Kyoto. He downhill skied gracefully. He cross-country skied clumsily. No more.


Eventually, even ordinary pleasures, like a good peach, no longer appealed to him.


Yet, what amazed me, and what I learned from his illness, was how much was still left after so much had been taken away.

I remember my brother learning to walk again, with a chair. After his liver transplant, once a day he would get up on legs that seemed too thin to bear him, arms pitched to the chair back. He’d push that chair down the Memphis hospital corridor towards the nursing station and then he’d sit down on the chair, rest, turn around and walk back again. He counted his steps and, each day, pressed a little farther.

Laurene got down on her knees and looked into his eyes.

“You can do this, Steve,” she said. His eyes widened. His lips pressed into each other.

He tried. He always, always tried, and always with love at the core of that effort. He was an intensely emotional man.

I realized during that terrifying time that Steve was not enduring the pain for himself. He set destinations: his son Reed’s graduation from high school, his daughter Erin’s trip to Kyoto, the launching of a boat he was building on which he planned to take his family around the world and where he hoped he and Laurene would someday retire.

Even ill, his taste, his discrimination and his judgment held. He went through 67 nurses before finding kindred spirits and then he completely trusted the three who stayed with him to the end. Tracy. Arturo. Elham.
One time when Steve had contracted a tenacious pneumonia his doctor forbid everything — even ice. We were in a standard I.C.U. unit. Steve, who generally disliked cutting in line or dropping his own name, confessed that this once, he’d like to be treated a little specially.

I told him: Steve, this is special treatment.

He leaned over to me, and said: “I want it to be a little more special.”

Intubated, when he couldn’t talk, he asked for a notepad. He sketched devices to hold an iPad in a hospital bed. He designed new fluid monitors and x-ray equipment. He redrew that not-quite-special-enough hospital unit. And every time his wife walked into the room, I watched his smile remake itself on his face.

For the really big, big things, you have to trust me, he wrote on his sketchpad. He looked up. You have to.
By that, he meant that we should disobey the doctors and give him a piece of ice.

None of us knows for certain how long we’ll be here. On Steve’s better days, even in the last year, he embarked upon projects and elicited promises from his friends at Apple to finish them. Some boat builders in the Netherlands have a gorgeous stainless steel hull ready to be covered with the finishing wood. His three daughters remain unmarried, his two youngest still girls, and he’d wanted to walk them down the aisle as he’d walked me the day of my wedding.

We all — in the end — die in medias res. In the middle of a story. Of many stories.

I suppose it’s not quite accurate to call the death of someone who lived with cancer for years unexpected, but Steve’s death was unexpected for us.

What I learned from my brother’s death was that character is essential: What he was, was how he died.
Tuesday morning, he called me to ask me to hurry up to Palo Alto. His tone was affectionate, dear, loving, but like someone whose luggage was already strapped onto the vehicle, who was already on the beginning of his journey, even as he was sorry, truly deeply sorry, to be leaving us.

He started his farewell and I stopped him. I said, “Wait. I’m coming. I’m in a taxi to the airport. I’ll be there.”
“I’m telling you now because I’m afraid you won’t make it on time, honey.”

When I arrived, he and his Laurene were joking together like partners who’d lived and worked together every day of their lives. He looked into his children’s eyes as if he couldn’t unlock his gaze.


Until about 2 in the afternoon, his wife could rouse him, to talk to his friends from Apple.


Then, after awhile, it was clear that he would no longer wake to us.

His breathing changed. It became severe, deliberate, purposeful. I could feel him counting his steps again, pushing farther than before.

This is what I learned: he was working at this, too. Death didn’t happen to Steve, he achieved it.
He told me, when he was saying goodbye and telling me he was sorry, so sorry we wouldn’t be able to be old together as we’d always planned, that he was going to a better place.

Dr. Fischer gave him a 50/50 chance of making it through the night.

He made it through the night, Laurene next to him on the bed sometimes jerked up when there was a longer pause between his breaths. She and I looked at each other, then he would heave a deep breath and begin again.

This had to be done. Even now, he had a stern, still handsome profile, the profile of an absolutist, a romantic. His breath indicated an arduous journey, some steep path, altitude.

He seemed to be climbing.

But with that will, that work ethic, that strength, there was also sweet Steve’s capacity for wonderment, the artist’s belief in the ideal, the still more beautiful later.

Steve’s final words, hours earlier, were monosyllables, repeated three times.

Before embarking, he’d looked at his sister Patty, then for a long time at his children, then at his life’s partner, Laurene, and then over their shoulders past them.

Steve’s final words were:

OH WOW. OH WOW. OH WOW.

Mona Simpson is a novelist and a professor of English at the University of California, Los Angeles. She delivered this eulogy for her brother, Steve Jobs, on Oct. 16 at his memorial service at the Memorial Church of Stanford University.

***


The Genius of Jobs

ONE of the questions I wrestled with when writing about Steve Jobs was how smart he was. On the surface, this should not have been much of an issue. You’d assume the obvious answer was: he was really, really smart. Maybe even worth three or four reallys. After all, he was the most innovative and successful business leader of our era and embodied the Silicon Valley dream writ large: he created a start-up in his parents’ garage and built it into the world’s most valuable company.

But I remember having dinner with him a few months ago around his kitchen table, as he did almost every evening with his wife and kids. Someone brought up one of those brainteasers involving a monkey’s having to carry a load of bananas across a desert, with a set of restrictions about how far and how many he could carry at one time, and you were supposed to figure out how long it would take. Mr. Jobs tossed out a few intuitive guesses but showed no interest in grappling with the problem rigorously. I thought about how Bill Gates would have gone click-click-click and logically nailed the answer in 15 seconds, and also how Mr. Gates devoured science books as a vacation pleasure. But then something else occurred to me: Mr. Gates never made the iPod. Instead, he made the Zune.

So was Mr. Jobs smart? Not conventionally. Instead, he was a genius. That may seem like a silly word game, but in fact his success dramatizes an interesting distinction between intelligence and genius. His imaginative leaps were instinctive, unexpected, and at times magical. They were sparked by intuition, not analytic rigor. Trained in Zen Buddhism, Mr. Jobs came to value experiential wisdom over empirical analysis. He didn’t study data or crunch numbers but like a pathfinder, he could sniff the winds and sense what lay ahead.

He told me he began to appreciate the power of intuition, in contrast to what he called “Western rational thought,” when he wandered around India after dropping out of college. “The people in the Indian countryside don’t use their intellect like we do,” he said. “They use their intuition instead ... Intuition is a very powerful thing, more powerful than intellect, in my opinion. That’s had a big impact on my work.”

Mr. Jobs’s intuition was based not on conventional learning but on experiential wisdom. He also had a lot of imagination and knew how to apply it. As Einstein said, “Imagination is more important than knowledge.”
Einstein is, of course, the true exemplar of genius. He had contemporaries who could probably match him in pure intellectual firepower when it came to mathematical and analytic processing. Henri Poincaré, for example, first came up with some of the components of special relativity, and David Hilbert was able to grind out equations for general relativity around the same time Einstein did. But neither had the imaginative genius to make the full creative leap at the core of their theories, namely that there is no such thing as absolute time and that gravity is a warping of the fabric of space-time. (O.K., it’s not that simple, but that’s why he was Einstein and we’re not.)

Einstein had the elusive qualities of genius, which included that intuition and imagination that allowed him to think differently (or, as Mr. Jobs’s ads said, to Think Different.) Although he was not particularly religious, Einstein described this intuitive genius as the ability to read the mind of God. When assessing a theory, he would ask himself, Is this the way that God would design the universe? And he expressed his discomfort with quantum mechanics, which is based on the idea that probability plays a governing role in the universe by declaring that he could not believe God would play dice. (At one physics conference, Niels Bohr was prompted to urge Einstein to quit telling God what to do.)

Both Einstein and Mr. Jobs were very visual thinkers. The road to relativity began when the teenage Einstein kept trying to picture what it would be like to ride alongside a light beam. Mr. Jobs spent time almost every afternoon walking around the studio of his brilliant design chief Jony Ive and fingering foam models of the products they were developing.

Mr. Jobs’s genius wasn’t, as even his fanboys admit, in the same quantum orbit as Einstein’s. So it’s probably best to ratchet the rhetoric down a notch and call it ingenuity. Bill Gates is super-smart, but Steve Jobs was super-ingenious. The primary distinction, I think, is the ability to apply creativity and aesthetic sensibilities to a challenge.
In the world of invention and innovation, that means combining an appreciation of the humanities with an understanding of science — connecting artistry to technology, poetry to processors. This was Mr. Jobs’s specialty. “I always thought of myself as a humanities person as a kid, but I liked electronics,” he said. “Then I read something that one of my heroes, Edwin Land of Polaroid, said about the importance of people who could stand at the intersection of humanities and sciences, and I decided that’s what I wanted to do.”

The ability to merge creativity with technology depends on one’s ability to be emotionally attuned to others. Mr. Jobs could be petulant and unkind in dealing with other people, which caused some to think he lacked basic emotional awareness. In fact, it was the opposite. He could size people up, understand their inner thoughts, cajole them, intimidate them, target their deepest vulnerabilities, and delight them at will. He knew, intuitively, how to create products that pleased, interfaces that were friendly, and marketing messages that were enticing.

In the annals of ingenuity, new ideas are only part of the equation. Genius requires execution. When others produced boxy computers with intimidating interfaces that confronted users with unfriendly green prompts that said things like “C:\>,” Mr. Jobs saw there was a market for an interface like a sunny playroom. Hence, the Macintosh. Sure, Xerox came up with the graphical desktop metaphor, but the personal computer it built was a flop and it did not spark the home computer revolution. Between conception and creation, T. S. Eliot observed, there falls the shadow.

In some ways, Mr. Jobs’s ingenuity reminds me of that of Benjamin Franklin, one of my other biography subjects. Among the founders, Franklin was not the most profound thinker — that distinction goes to Jefferson or Madison or Hamilton. But he was ingenious.


This depended, in part, on his ability to intuit the relationships between different things. When he invented the battery, he experimented with it to produce sparks that he and his friends used to kill a turkey for their end of season feast. In his journal, he recorded all the similarities between such sparks and lightning during a thunderstorm, then declared “Let the experiment be made.” So he flew a kite in the rain, drew electricity from the heavens, and ended up inventing the lightning rod. Like Mr. Jobs, Franklin enjoyed the concept of applied creativity — taking clever ideas and smart designs and applying them to useful devices.

China and India are likely to produce many rigorous analytical thinkers and knowledgeable technologists. But smart and educated people don’t always spawn innovation. America’s advantage, if it continues to have one, will be that it can produce people who are also more creative and imaginative, those who know how to stand at the intersection of the humanities and the sciences. That is the formula for true innovation, as Steve Jobs’s career showed.

Walter Isaacson is the author of “Steve Jobs.”




***

còn tiếp ...
Girls Generation - Korean