Hi bạn,
Vào nhà bếp một tiệm phở để xem cũng rất thú vị, nhất là người chủ thật dễ chịu và tận tình chỉ dẫn các bí quyết. Từ lâu lắm rồi tôi không thích đi ăn phở bên ngoài nữa, vì "ma femme" nấu ngon lắm, tôi chuyên trị rửa gà hầm cho nồi phở gà, cách thức hệt như chủ nhân nói, phải rửa thật kỹ sau khi luộc sơ gà. Có hai loại gà, một để làm nước phở, và một để ăn, không lẫn lộn 2 thứ.
Nghe bác ấy giảng hay quá, chắc hôm nào phải đi ăn mới được. Tiệm phở Thanh Lịch rất dễ kiếm, ngay góc Brookhurst và Hazard, một trong các trục chính của Little Saigon.
hay xem ở đây các bản tin khác của báo Người Việt
http://www.youtube.com/user/NguoiVietOnline#p/u/0/J27iCExNNdU
Hoctro
Thứ Hai, 29 tháng 11, 2010
Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010
Michèle Torr - Emmène-moi danser ce soir và Patrick Sebastien :Les Années Bonheur
Bạn,
Lần tìm đến một trang youtube do một "mạnh thường quân" tổ chức các buổi trình diễn "Live" nhan đề Les Années Bonheur (những năm tháng hạnh phúc), thấy một bản nhạc rất quen thuộc Emmène-moi danser ce soir (Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay) mà đài FM Saigon hay cho phát thanh trong chương trình nhạc mỗi sáng chủ nhật lúc 9g, những năm giữa 80. Tôi còn nhớ đã dùng máy cassette thâu những bài nhạc hay như bài này, và say mê giọng ca khàn khàn của danh ca Michele Torr từ đó.
Xem theo link, bài Emmenne ... bắt đầu khoảng 3 phút:
http://www.youtube.com/watch?v=TSANrIog9OY
Hay trên trang này:
Michèle Torr - Emmène-moi danser ce soir
Lời rất hay, đối với những người đã lập gia đình như tôi. Để tôi thử dịch, tuy tiếng Pháp rất non:
Aujourd'hui ça fait six ans que nous sommes mariés
Tu m'as donné de beaux enfants tu sais
Depuis ce petit bal où l'on s'est rencontré
Je n'ai pas cessé de t'aimer
Hôm nay là ngày kỷ niệm sáu năm anh và em nên duyên vợ chồng
"Em đã cho anh những đứa con thật xinh đẹp", anh nói thế
Từ khi đôi ta gặp nhau lần đầu trên sàn nhảy nhỏ bé ấy
Em chưa bao giờ ngừng yêu anh
Mais ce soir j'ai envie de déposer mon tablier
De me faire belle pour toi comme par le passé
Ton fauteuil ton journal tes cigarettes et la télé
Ce soir laissent les de côtés ...
Nhưng chiều nay em muốn cất đi chiếc khăn tạp dề
Để làm trang điểm dành cho anh như ngày xưa
Báo anh đọc, ghế anh ngồi, thuốc anh đang hút, và cái tivi nữa
Hãy bỏ chúng qua một bên đi anh ...
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay,
Hãy kề má nhau và ôm ấp trong màn đêm
Hãy tán tỉnh em như những ngày đầu ta gặp gỡ
Như đêm nọ khi em vừa mười bảy tuổi (nghĩa có lẽ .. sâu đậm hơn (avoir prendre) nhưng thôi kệ)
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay,
Hãy tán tỉnh nhau, ôm ấp nhau trong màn đêm
Rồi thản nhiên bảo em "Michèle, anh yêu em"
Và yêu đương ấy em vẫn giữ không hề nhạt phai ...
Il n'y a plus que tes amis et le football qui comptent pour toi
Et j'ai l'impression que tu ne vois plus en moi que la mère de tes enfants
Oh je ne te demande pas de m'offrir des fleurs tous les jours
Mais de faire de temps en temps un geste d'amour
Giờ đây chỉ còn bạn bè và bóng tròn là làm anh để ý tới,
Em có cảm giác rằng anh chỉ còn coi em như là mẹ lũ trẻ,
Ôi, em đâu có đòi hỏi anh phải tặng em hoa mỗi ngày,
Chỉ cần đôi khi cho em thấy một cử chỉ yêu thương của anh là đủ rồi ...
Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay ...
Chương trình Les Années Bonheur này hình như mới ra gần đây:
http://www.youtube.com/user/patricksebastien
Xem thử vài chương trình khác của các ca sĩ Pháp quen thuộc
****
Michèle Torr - Emmène-moi danser ce soir
Aujourd'hui ça fait six ans que nous sommes mariés
Tu m'as donné de beaux enfants tu sais
Depuis ce petit bal où l'on s'est rencontré
Je n'ai pas cessé de t'aimer
Mais ce soir j'ai envie de déposer mon tablier
De me faire belle pour toi comme par le passé
Ton fauteuil ton journal tes cigarettes et la télé
Ce soir laissent les de côtés
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Il n'y a plus que tes amis et le football qui comptent pour toi
Et j'ai l'impression que tu ne vois plus en moi que la mère de tes enfants
Oh je ne te demande pas de m'offrir des fleurs tous les jours
Mais de faire de temps en temps un geste d'amour
Et ce soir je voudrais encore une fois te retrouver
Rentrer au petit jour et puis t'embrasser
Ton fauteuil ton journal tes cigarettes et la télé
Ce soir laissent les de côtés
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Lần tìm đến một trang youtube do một "mạnh thường quân" tổ chức các buổi trình diễn "Live" nhan đề Les Années Bonheur (những năm tháng hạnh phúc), thấy một bản nhạc rất quen thuộc Emmène-moi danser ce soir (Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay) mà đài FM Saigon hay cho phát thanh trong chương trình nhạc mỗi sáng chủ nhật lúc 9g, những năm giữa 80. Tôi còn nhớ đã dùng máy cassette thâu những bài nhạc hay như bài này, và say mê giọng ca khàn khàn của danh ca Michele Torr từ đó.
Xem theo link, bài Emmenne ... bắt đầu khoảng 3 phút:
http://www.youtube.com/watch?v=TSANrIog9OY
Hay trên trang này:
Michèle Torr - Emmène-moi danser ce soir
Lời rất hay, đối với những người đã lập gia đình như tôi. Để tôi thử dịch, tuy tiếng Pháp rất non:
Aujourd'hui ça fait six ans que nous sommes mariés
Tu m'as donné de beaux enfants tu sais
Depuis ce petit bal où l'on s'est rencontré
Je n'ai pas cessé de t'aimer
Hôm nay là ngày kỷ niệm sáu năm anh và em nên duyên vợ chồng
"Em đã cho anh những đứa con thật xinh đẹp", anh nói thế
Từ khi đôi ta gặp nhau lần đầu trên sàn nhảy nhỏ bé ấy
Em chưa bao giờ ngừng yêu anh
Mais ce soir j'ai envie de déposer mon tablier
De me faire belle pour toi comme par le passé
Ton fauteuil ton journal tes cigarettes et la télé
Ce soir laissent les de côtés ...
Nhưng chiều nay em muốn cất đi chiếc khăn tạp dề
Để làm trang điểm dành cho anh như ngày xưa
Báo anh đọc, ghế anh ngồi, thuốc anh đang hút, và cái tivi nữa
Hãy bỏ chúng qua một bên đi anh ...
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay,
Hãy kề má nhau và ôm ấp trong màn đêm
Hãy tán tỉnh em như những ngày đầu ta gặp gỡ
Như đêm nọ khi em vừa mười bảy tuổi (nghĩa có lẽ .. sâu đậm hơn (avoir prendre) nhưng thôi kệ)
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay,
Hãy tán tỉnh nhau, ôm ấp nhau trong màn đêm
Rồi thản nhiên bảo em "Michèle, anh yêu em"
Và yêu đương ấy em vẫn giữ không hề nhạt phai ...
Il n'y a plus que tes amis et le football qui comptent pour toi
Et j'ai l'impression que tu ne vois plus en moi que la mère de tes enfants
Oh je ne te demande pas de m'offrir des fleurs tous les jours
Mais de faire de temps en temps un geste d'amour
Giờ đây chỉ còn bạn bè và bóng tròn là làm anh để ý tới,
Em có cảm giác rằng anh chỉ còn coi em như là mẹ lũ trẻ,
Ôi, em đâu có đòi hỏi anh phải tặng em hoa mỗi ngày,
Chỉ cần đôi khi cho em thấy một cử chỉ yêu thương của anh là đủ rồi ...
Hãy đưa em đi khiêu vũ chiều nay ...
Chương trình Les Années Bonheur này hình như mới ra gần đây:
http://www.youtube.com/user/patricksebastien
Xem thử vài chương trình khác của các ca sĩ Pháp quen thuộc
- Les Années Bonheur
- Alain Barriere
- Didier Barbelivien - Elle
- Gérard Lenorman
- Michel Delpech - Pour un flirt
- Michel Fugain - Comme si tu es devait mourir demain - Fait comme oiseau
- Stone & Charden - L'avventura
****
Michèle Torr - Emmène-moi danser ce soir
Aujourd'hui ça fait six ans que nous sommes mariés
Tu m'as donné de beaux enfants tu sais
Depuis ce petit bal où l'on s'est rencontré
Je n'ai pas cessé de t'aimer
Mais ce soir j'ai envie de déposer mon tablier
De me faire belle pour toi comme par le passé
Ton fauteuil ton journal tes cigarettes et la télé
Ce soir laissent les de côtés
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Il n'y a plus que tes amis et le football qui comptent pour toi
Et j'ai l'impression que tu ne vois plus en moi que la mère de tes enfants
Oh je ne te demande pas de m'offrir des fleurs tous les jours
Mais de faire de temps en temps un geste d'amour
Et ce soir je voudrais encore une fois te retrouver
Rentrer au petit jour et puis t'embrasser
Ton fauteuil ton journal tes cigarettes et la télé
Ce soir laissent les de côtés
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Emmène-moi danser ce soir
Joue contre joue et serrer dans le noir
Et fais-moi la cour comme aux premiers instants
Comme cette nuit où tu as pris mes 17 ans
Emmène-moi danser ce soir
Flirtons ensemble enlacés dans le noir
Timidement dis moi Michèle je t'aime
Amoureusement je suis restée la même
Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010
Những bài nhạc Pháp thập niên 60 và sau này - Bắt chước tiến trình hòa âm
Bạn,
Hai tuần nay tôi tìm thời gian rảnh để lắp ráp các bài nhạc Pháp hay mà tôi đã giới thiệu cũng như yêu thích vào chung một trang. Tới hôm nay làgần trên 250 bài rồi.
http://hoctroviet.blogspot.com/p/nhac-phap.html
Các bạn nào xem blog tôi thường xuyên thì sẽ biết tính tôi rất thích hệ thống hoá như vậy. Quả thật, khi có một danh sách trên tay thì sẽ thâý mình cũng biết nhiều, hơn là chỉ biết là mình biết chung chung. Tôi cũng tìm ra nhiều bài hay, chưa nghe bao giờ.
Có hai bài nhạc, nghe kỹ thì bạn sẽ thấy là một bài "bê" tiến trình hòa âm sang baì kia 2, 3 câu đầu:
và bài này gốc từ nhạc Mỹ:
Bài nào cũng hay hết! Và không ai bắt bẻ được vì chord progression không là melody nên "bê" nguyên con thì OK!!!!
Hẹn bạn kỳ tới,
hoctro
11/25/10
Hai tuần nay tôi tìm thời gian rảnh để lắp ráp các bài nhạc Pháp hay mà tôi đã giới thiệu cũng như yêu thích vào chung một trang. Tới hôm nay là
http://hoctroviet.blogspot.com/p/nhac-phap.html
Các bạn nào xem blog tôi thường xuyên thì sẽ biết tính tôi rất thích hệ thống hoá như vậy. Quả thật, khi có một danh sách trên tay thì sẽ thâý mình cũng biết nhiều, hơn là chỉ biết là mình biết chung chung. Tôi cũng tìm ra nhiều bài hay, chưa nghe bao giờ.
Có hai bài nhạc, nghe kỹ thì bạn sẽ thấy là một bài "bê" tiến trình hòa âm sang baì kia 2, 3 câu đầu:
và bài này gốc từ nhạc Mỹ:
Bài nào cũng hay hết! Và không ai bắt bẻ được vì chord progression không là melody nên "bê" nguyên con thì OK!!!!
Hẹn bạn kỳ tới,
hoctro
11/25/10
Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010
Paul Mauriat - Nhạc Giáng Sinh
Bạn,
Mùa Giáng Sinh lại đang đến trên đất Mỹ. Tuy không là người công giáo, nhưng tôi lúc nào cũng yêu thích nhạc Giáng Sinh, và con tôi lại bắt đầu tập lại các bài nhạc piano Giáng Sinh để vui cửa vui nhà.
Mời các bạn cùng nghe LP nhạc Giáng Sinh của ban nhạc đại hòa tấu Paul Mauriat 1967.
NOELS (1967)
Mùa Giáng Sinh lại đang đến trên đất Mỹ. Tuy không là người công giáo, nhưng tôi lúc nào cũng yêu thích nhạc Giáng Sinh, và con tôi lại bắt đầu tập lại các bài nhạc piano Giáng Sinh để vui cửa vui nhà.
Mời các bạn cùng nghe LP nhạc Giáng Sinh của ban nhạc đại hòa tấu Paul Mauriat 1967.
NOELS (1967)
- VIVE LE VENT (Jingle Bells) (02:51)
(Tradicional - Arr.: Paul Mauriat) - NOEL BLANC (White Christmas) (03:14)
(Irving Berlin - F. Blanche) - TROIS ANGES SONT VENUS CE SOIR (02:29)
(A. Holmes) - DOUCE NUIT SAINT NUIT (Silent Night) (02:50)
(Tradicional - Arr.: Paul Mauriat) - RIN, RIN (02:03)
(Bronder) - ENTRE LE BOEUF ET L'ANE GRIS (02:06)
(Tradicional - Arr.: Paul Mauriat) - LES ANGES DANS NOS CAMPAGNES (Gloria en Excelsis Deo) (02:51)
(Tradicional - Arr.: Paul Mauriat) - IL EST NE LE DIVIN ENFANT (01:59)
(Tradicional - Arr.: Jack Helison) - MON BEAU SAPIN (O Tannenbaum) (01:52)
(Tradicional - Arr.: Jack Helison) - PEUPLE FIDELE (Adeste Fideles) (02:33)
(Tradicional - Arr.: Paul Mauriat) - MINUIT CHRETIENS (O Holy Night) (03:50)
(Adolphe Adam - Coppeau de Roquemaure - Arr.: Paul Mauriat) - PETIT PAPA NOEL (02:19)
(Henri Martinet - Raymond Vincy)
Thứ Năm, 18 tháng 11, 2010
Comment te dire adieu - Françoise Hardy
Bạn,
Trước giờ tôi chỉ mới thấy có một adaptation từ một style nhạc qua một style khác mà hay hơn. Đó là trường hợp "Ticket to Ride" do The Carpenters chơi lại từ The Beatles.
Đến hôm nay thì mới thấy trường hợp thứ hai. Đó là bài "Comment te dire adieu" do Françoise Hardy hát, Serge Gainsbourg (người viết Je t'aime moi non plus) viết lại lời Pháp và style nhạc khác. Bài gốc là "It Hurts To Say Goodbye" - 1966 do Margaret Whiting trình bày.
Trong khi bài gốc thì rất cổ điển, kiểu Frank Sinatra, style "tin pan alley", bài adaptation rất "chic", "ye-ye", bất cần đời, sôi nổi, kèn trumpet họa theo rất vui. Điệp khúc nói theo thay vì hát. Bass đánh rất "bouncy". Lúc cuối câu trống đập 3 cái nghe rất "phê". Chỗ đầu bài, hình như nhạc trưởng là Franck Pourcel, một trong Tứ Quái nhạc hòa tấu mà tôi ưa thích (Franck Pourcel, Paul Mauriat, Raymond Lefevre, và Caravelli.)
Còn nữa, Françoise Hardy đẹp "rùng rợn", đẹp hơn nhiều tài tử, ca sĩ Mỹ thời nay. Một nhan sắc kiêu sa, tự tin và kín đáo, nụ cười nhếch mép rất dễ thương. Nói như Elton John (khi anh ca tụng nhan sắc Marilyn Monroe trong Candle in the Wind), tôi sinh lầm thời, mê toàn nhạc retro 60'.
Tiểu sử Françoise Hardy anh ngữ:
http://sweetfrancoise.blogspot.com/2009/10/francoise-hardy-seventies-to-2000-bio.html
Pháp ngữ
http://www.teppaz-and-co.fr/chanteuses/biographies/francoisehardy.html
Comment te dire adieu
It Hurts To Say Goodbye
Trước giờ tôi chỉ mới thấy có một adaptation từ một style nhạc qua một style khác mà hay hơn. Đó là trường hợp "Ticket to Ride" do The Carpenters chơi lại từ The Beatles.
Đến hôm nay thì mới thấy trường hợp thứ hai. Đó là bài "Comment te dire adieu" do Françoise Hardy hát, Serge Gainsbourg (người viết Je t'aime moi non plus) viết lại lời Pháp và style nhạc khác. Bài gốc là "It Hurts To Say Goodbye" - 1966 do Margaret Whiting trình bày.
Trong khi bài gốc thì rất cổ điển, kiểu Frank Sinatra, style "tin pan alley", bài adaptation rất "chic", "ye-ye", bất cần đời, sôi nổi, kèn trumpet họa theo rất vui. Điệp khúc nói theo thay vì hát. Bass đánh rất "bouncy". Lúc cuối câu trống đập 3 cái nghe rất "phê". Chỗ đầu bài, hình như nhạc trưởng là Franck Pourcel, một trong Tứ Quái nhạc hòa tấu mà tôi ưa thích (Franck Pourcel, Paul Mauriat, Raymond Lefevre, và Caravelli.)
Còn nữa, Françoise Hardy đẹp "rùng rợn", đẹp hơn nhiều tài tử, ca sĩ Mỹ thời nay. Một nhan sắc kiêu sa, tự tin và kín đáo, nụ cười nhếch mép rất dễ thương. Nói như Elton John (khi anh ca tụng nhan sắc Marilyn Monroe trong Candle in the Wind), tôi sinh lầm thời, mê toàn nhạc retro 60'.
Tiểu sử Françoise Hardy anh ngữ:
http://sweetfrancoise.blogspot.com/2009/10/francoise-hardy-seventies-to-2000-bio.html
Pháp ngữ
http://www.teppaz-and-co.fr/chanteuses/biographies/francoisehardy.html
Comment te dire adieu
It Hurts To Say Goodbye
Thứ Năm, 11 tháng 11, 2010
Conan O' Brien is baaaaaaaaaaaaaack!!!!
I'm living my dream!!! Late night show host Conan O'Brien is baaaaaaaack!!!
Xem các video monologues ở đây.
http://www.tbs.com/video/conan/
Từ khi Conan bị đá văng khỏi The Tonight Show, tôi tự hứa với lòng là không bao giờ thèm xem Jay Leno nữa. Quả thật, từ khi Leno về lại, tôi lỡ bật qua đài 4, thấy mặt Leno là bật ngay sang channel khác. Anh chàng Leno này quá tham lam, đã nhường Conan The Tonight Show, vậy mà nỡ lòng nghe theo xếp quay lại host show cũ.
Cuối cùng thì Conan đã tìm được mái nhà mới TBS. Từ nay lại có một nguồn vui xem molologues của Conan, cũng như các "trò khỉ" khác của anh.
Đây là video "đăng quang lần 2 trong cùng 1 năm" của anh.
Cheers,
Xem các video monologues ở đây.
http://www.tbs.com/video/conan/
Từ khi Conan bị đá văng khỏi The Tonight Show, tôi tự hứa với lòng là không bao giờ thèm xem Jay Leno nữa. Quả thật, từ khi Leno về lại, tôi lỡ bật qua đài 4, thấy mặt Leno là bật ngay sang channel khác. Anh chàng Leno này quá tham lam, đã nhường Conan The Tonight Show, vậy mà nỡ lòng nghe theo xếp quay lại host show cũ.
Cuối cùng thì Conan đã tìm được mái nhà mới TBS. Từ nay lại có một nguồn vui xem molologues của Conan, cũng như các "trò khỉ" khác của anh.
Đây là video "đăng quang lần 2 trong cùng 1 năm" của anh.
Cheers,
Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2010
Tái Ông Thất Mã
Quỳnh Giao
Người viết này có cái thú đọc truyện trinh thám.
Truyện trinh thám của chúng ta không có nhiều. Sau thời kỳ Thế Lữ với Lê Phong tới thời kỳ Phạm Cao Củng với Kỳ Phát thì thể loại văn chương đó bị đẩy lui dần. Trinh thám phóng tác của Lương Quân rồi Hoàng Hải Thủy và nhiều dịch giả khác cứ dần dần lấn đất giành dân.
Có muốn tìm ra nguyên bản thì cũng... khó, vì không có nhiều ở Sài Gòn, mà chính mình thì cũng... chẳng nhiều chữ.
Sau cuộc đổi đời 1-9-7-5, chúng ta có thêm một lần đánh vật. Không chỉ với chữ và nghĩa và tay chân để kiếm việc làm nuôi gia đình, mà còn đánh vật với cuốn sách. Vào thời kỳ đổ bộ ấy, sách báo tiếng Việt chưa có nhiều, nhà Xuân Thu hay Lê Bá Kông mới chỉ tái bản một số, trong đó gần như không có truyện trinh thám, loại sách chưa đáng mặt văn chương.
Như chuyện Tái Ông Thất Mã, trong cái rủi lại có cái may!
Người viết để ý đến trinh thám ngoại quốc từ đấy. Sống trên xứ người ta mà không đọc sách của người ta thì làm sao hiểu xã hội của người ta? Mà trinh thám thật ra là truyện xã hội đặt trong hoàn cảnh kỳ bí, và kích thích sự tò mò của chúng ta. Mở cuốn truyện là có chuyện đấu trí, xem tác giả đánh lừa sự suy luận của mình như thế nào.
Một lý do khác là tâm tư buồn bã của người tỵ nạn khiến mình ít đọc các tác phẩm văn chương nữa. Ðọc lại “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Tolstoy thì mình lại nhớ đến... Sài Gòn và phim ảnh xuất phát từ tác phẩm này.
Trong các cuốn trinh thám, Quỳnh Giao thích nhất loại hình sự liên quan đến luật pháp. Sách của Grisham hay Patterson vẫn có... trí tuệ hơn truyện của Ludlum hay Forsyth. Cũng may là trong nhà, có ba người đều cùng thích đọc, mỗi người một loại... Nhờ đấy thì mới để ý tới truyện trinh thám của học giả Hòa Lan là Robert Van Gulik. Ông này tinh thông cỡ trăm truyện và chục ngôn ngữ, rồi buồn buồn viết truyện trinh thám... đời Ðường, hơn ngàn năm trước ở bên Tầu.
Cũng nhờ có liếc qua nhiều loại truyện như vậy mình mới khám phá ngược. Tìm ra một tác giả Tầu ở bên Mỹ, viết truyện trinh thám hiện đại ở... Thượng Hải. Tên ông ta là Qiu Xiaolong mà nhờ có mấy người thông thái trong nhà, Quỳnh Giao mới biết là tên chữ Hán là Cừu Tiểu Long. Xin quý độc giả để ý đến tác giả này.
Tác giả sinh năm 1953 ở Thượng Hải, thân phụ là giáo viên tức là người có học trong xã hội đó và vì vậy bị vướng trong vụ Cách Mạng Văn Hóa, năm cậu bé Tiểu Long còn là học sinh. Khi ông bố bị lôi ra đấu tố mà mắt đã gần mù vì bị đánh thì cậu phải nắn nót viết bản tự thú do người cha đọc cho mình. Con đường dẫn Tiểu Long vào văn chương là như vậy đấy!
Sau mười năm được cải tạo, Tiểu Long mới được đi học lại và cái mầm văn chương dẫn cậu về văn học cổ của Trung Hoa, rồi mở ra thi ca thế giới khi học ngoại ngữ. Cậu miệt mài đọc Shakespeare, Jack London hay Mark Twain và mê nhất là thơ T.S. Eliot cùng truyện trinh thám của Conan Doyle...
Trong đời người, ai ai cũng có thể trải qua những hoạn nạn và đi tìm giải thoát trong văn chương, nhưng cũng cần phải có năng khiếu, và nhất là may mắn. Tái Ông Thất Mã mà!
Là người dịch thơ T.S. Eliot ra tiếng Tầu, cậu được cấp học bổng một năm qua sống tại sinh quán của nhà thơ, tại St. Louis. Chuyện Tái Ông Thất Mã lại tái diễn. Ở Hoa Kỳ, đang chuẩn bị luận án tiến sĩ thì Cừu Tiểu Long làm bếp lấy tiền cứu giúp nạn nhân vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Nhờ báo chí Mỹ mau mắn phóng tên mình lên đài, gia đình ở nhà lập tức được công an thăm hỏi. Còn cuốn thơ mà Cừu Tiểu Long dự tính xuất bản lập tức chết yểu.
Nhưng trong cái rủi lại có cái may. Cừu Tiểu Long và người vợ ở lại luôn bên Mỹ, trở thành công dân Mỹ! Cái rủi của tác giả là cái may của Hoa Kỳ vì có thêm một giáo sư dạy đại học, một tác giả làm thơ và viết truyện bằng tiếng Anh. Nỗi đam mê truyện trinh thám từ thời còn trẻ đã trào dâng và đưa Cừu Tiểu Long về đất Thượng Hải của thời thanh xuân đầy sóng gió...
Cửu Tiểu Long viết truyện trinh thám về Thượng Hải trong những năm đổi đời và viết rất hay! Xuất bản năm 2000, tác phầm đầu tay là cuốn “Cái Chết Của Một Anh Thư Ðỏ” - Death of a Red Heroin - được giới phê bình Hoa Kỳ và Âu Châu nhiệt liệt ngợi khen. Nối tiếp là sáu cuốn khác, cũng ly kỳ không kém!
Gần như truyện Simenon mà tươi tắn hơn nhiều, truyện trinh thám của Cừu Tiểu Long dựng lại không khí muôn màu của xã hội cộng sản Thượng Hải khi tiếp xúc với kinh tế thị trường và gặp cơn sốt vỡ da. Ðộc giả nơi nơi đều tán tụng nên truyện của Cừu Tiểu Long đã được phiên dịch qua 23 thứ tiếng, bán cả triệu cuốn. Rất bén nhạy, từ mấy năm trước nhật báo Le Monde của Pháp mời tác giả trinh thám viết về chuyện hiện thực xã hội. Từ đó mới có cuốn “Phong Trần Ðỏ” - Cité de la Poussière Rouge, mà bên Mỹ đã xuất bản thành “Years of Red Dust”...
Nhà cầm quyền Bắc Kinh bèn... bắt quàng làm họ!
Tác giả được hồi hương để diễn thuyết về thi ca. Tập thơ bị bóp chết năm xưa nay được hồi sinh, sẽ xuất bản trong năm nay tại Thượng Hải.
Tái Ông Thất Mã! Nhờ thích đọc trinh thám, người viết cột “tạp ghi” này lại biết thêm về một tác giả, một nhà thơ và giáo sư có tài, được thế giới Âu-Mỹ mến mộ và sẽ có ngày dạy về thơ T.S. Eliot cho trẻ em Trung Quốc!
Thế rồi trông người lại nghĩ đến ta.
Tại California và cả miền Tây nước Mỹ, các gia đình Trung Hoa đều gửi con tràn ngập các đại học danh tiếng nhất, và chăm chút mầm non âm nhạc từ khi còn bé. Trong một thế hệ nữa thôi, nhân tài người Mỹ gốc Hoa sẽ rất đông. Các dàn nhạc giao hưởng Hoa Kỳ sẽ có rất nhiều nhạc sĩ vĩ cầm, dương cầm hay trung hồ cầm gốc Hoa... Làn sóng đó đang trào dâng.
Chúng ta vừa mất Thảo Trường. Với người viết là cây bút vững chãi và điêu luyện nhất không chỉ của miền Nam mà của cả nước Việt trong và ngoài từ mấy chục năm qua. Nhưng ngoài một số độc giả và bằng hữu, ít ai nhắc tới ông. Văn chương thế giới thì có lẽ cũng chẳng biết tới. Nếu Thảo Trường mà viết bằng Anh ngữ, hoặc có người chuyển ngữ tác phẩm của ông thì có lẽ sự thể đã khác.
Dù sao thì cũng đừng buồn. Nếu được biết về chuyện của chúng ta, đôi khi Cừu Tiểu Long có lời an ủi. Ngày đặt chân tới St. Louis vào năm 1988, ông tò mò hỏi dân chúng đường đến ngôi nhà xưa của nhà thơ T.S. Eliot và đều được mọi người hỏi lại: “T.S. Eliot là ai vậy?”
Chúng ta là ai vậy?
Người viết này có cái thú đọc truyện trinh thám.
Truyện trinh thám của chúng ta không có nhiều. Sau thời kỳ Thế Lữ với Lê Phong tới thời kỳ Phạm Cao Củng với Kỳ Phát thì thể loại văn chương đó bị đẩy lui dần. Trinh thám phóng tác của Lương Quân rồi Hoàng Hải Thủy và nhiều dịch giả khác cứ dần dần lấn đất giành dân.
Có muốn tìm ra nguyên bản thì cũng... khó, vì không có nhiều ở Sài Gòn, mà chính mình thì cũng... chẳng nhiều chữ.
Sau cuộc đổi đời 1-9-7-5, chúng ta có thêm một lần đánh vật. Không chỉ với chữ và nghĩa và tay chân để kiếm việc làm nuôi gia đình, mà còn đánh vật với cuốn sách. Vào thời kỳ đổ bộ ấy, sách báo tiếng Việt chưa có nhiều, nhà Xuân Thu hay Lê Bá Kông mới chỉ tái bản một số, trong đó gần như không có truyện trinh thám, loại sách chưa đáng mặt văn chương.
Như chuyện Tái Ông Thất Mã, trong cái rủi lại có cái may!
Người viết để ý đến trinh thám ngoại quốc từ đấy. Sống trên xứ người ta mà không đọc sách của người ta thì làm sao hiểu xã hội của người ta? Mà trinh thám thật ra là truyện xã hội đặt trong hoàn cảnh kỳ bí, và kích thích sự tò mò của chúng ta. Mở cuốn truyện là có chuyện đấu trí, xem tác giả đánh lừa sự suy luận của mình như thế nào.
Một lý do khác là tâm tư buồn bã của người tỵ nạn khiến mình ít đọc các tác phẩm văn chương nữa. Ðọc lại “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Tolstoy thì mình lại nhớ đến... Sài Gòn và phim ảnh xuất phát từ tác phẩm này.
Trong các cuốn trinh thám, Quỳnh Giao thích nhất loại hình sự liên quan đến luật pháp. Sách của Grisham hay Patterson vẫn có... trí tuệ hơn truyện của Ludlum hay Forsyth. Cũng may là trong nhà, có ba người đều cùng thích đọc, mỗi người một loại... Nhờ đấy thì mới để ý tới truyện trinh thám của học giả Hòa Lan là Robert Van Gulik. Ông này tinh thông cỡ trăm truyện và chục ngôn ngữ, rồi buồn buồn viết truyện trinh thám... đời Ðường, hơn ngàn năm trước ở bên Tầu.
Cũng nhờ có liếc qua nhiều loại truyện như vậy mình mới khám phá ngược. Tìm ra một tác giả Tầu ở bên Mỹ, viết truyện trinh thám hiện đại ở... Thượng Hải. Tên ông ta là Qiu Xiaolong mà nhờ có mấy người thông thái trong nhà, Quỳnh Giao mới biết là tên chữ Hán là Cừu Tiểu Long. Xin quý độc giả để ý đến tác giả này.
Tác giả sinh năm 1953 ở Thượng Hải, thân phụ là giáo viên tức là người có học trong xã hội đó và vì vậy bị vướng trong vụ Cách Mạng Văn Hóa, năm cậu bé Tiểu Long còn là học sinh. Khi ông bố bị lôi ra đấu tố mà mắt đã gần mù vì bị đánh thì cậu phải nắn nót viết bản tự thú do người cha đọc cho mình. Con đường dẫn Tiểu Long vào văn chương là như vậy đấy!
Sau mười năm được cải tạo, Tiểu Long mới được đi học lại và cái mầm văn chương dẫn cậu về văn học cổ của Trung Hoa, rồi mở ra thi ca thế giới khi học ngoại ngữ. Cậu miệt mài đọc Shakespeare, Jack London hay Mark Twain và mê nhất là thơ T.S. Eliot cùng truyện trinh thám của Conan Doyle...
Trong đời người, ai ai cũng có thể trải qua những hoạn nạn và đi tìm giải thoát trong văn chương, nhưng cũng cần phải có năng khiếu, và nhất là may mắn. Tái Ông Thất Mã mà!
Là người dịch thơ T.S. Eliot ra tiếng Tầu, cậu được cấp học bổng một năm qua sống tại sinh quán của nhà thơ, tại St. Louis. Chuyện Tái Ông Thất Mã lại tái diễn. Ở Hoa Kỳ, đang chuẩn bị luận án tiến sĩ thì Cừu Tiểu Long làm bếp lấy tiền cứu giúp nạn nhân vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Nhờ báo chí Mỹ mau mắn phóng tên mình lên đài, gia đình ở nhà lập tức được công an thăm hỏi. Còn cuốn thơ mà Cừu Tiểu Long dự tính xuất bản lập tức chết yểu.
Nhưng trong cái rủi lại có cái may. Cừu Tiểu Long và người vợ ở lại luôn bên Mỹ, trở thành công dân Mỹ! Cái rủi của tác giả là cái may của Hoa Kỳ vì có thêm một giáo sư dạy đại học, một tác giả làm thơ và viết truyện bằng tiếng Anh. Nỗi đam mê truyện trinh thám từ thời còn trẻ đã trào dâng và đưa Cừu Tiểu Long về đất Thượng Hải của thời thanh xuân đầy sóng gió...
Cửu Tiểu Long viết truyện trinh thám về Thượng Hải trong những năm đổi đời và viết rất hay! Xuất bản năm 2000, tác phầm đầu tay là cuốn “Cái Chết Của Một Anh Thư Ðỏ” - Death of a Red Heroin - được giới phê bình Hoa Kỳ và Âu Châu nhiệt liệt ngợi khen. Nối tiếp là sáu cuốn khác, cũng ly kỳ không kém!
Gần như truyện Simenon mà tươi tắn hơn nhiều, truyện trinh thám của Cừu Tiểu Long dựng lại không khí muôn màu của xã hội cộng sản Thượng Hải khi tiếp xúc với kinh tế thị trường và gặp cơn sốt vỡ da. Ðộc giả nơi nơi đều tán tụng nên truyện của Cừu Tiểu Long đã được phiên dịch qua 23 thứ tiếng, bán cả triệu cuốn. Rất bén nhạy, từ mấy năm trước nhật báo Le Monde của Pháp mời tác giả trinh thám viết về chuyện hiện thực xã hội. Từ đó mới có cuốn “Phong Trần Ðỏ” - Cité de la Poussière Rouge, mà bên Mỹ đã xuất bản thành “Years of Red Dust”...
Nhà cầm quyền Bắc Kinh bèn... bắt quàng làm họ!
Tác giả được hồi hương để diễn thuyết về thi ca. Tập thơ bị bóp chết năm xưa nay được hồi sinh, sẽ xuất bản trong năm nay tại Thượng Hải.
Tái Ông Thất Mã! Nhờ thích đọc trinh thám, người viết cột “tạp ghi” này lại biết thêm về một tác giả, một nhà thơ và giáo sư có tài, được thế giới Âu-Mỹ mến mộ và sẽ có ngày dạy về thơ T.S. Eliot cho trẻ em Trung Quốc!
Thế rồi trông người lại nghĩ đến ta.
Tại California và cả miền Tây nước Mỹ, các gia đình Trung Hoa đều gửi con tràn ngập các đại học danh tiếng nhất, và chăm chút mầm non âm nhạc từ khi còn bé. Trong một thế hệ nữa thôi, nhân tài người Mỹ gốc Hoa sẽ rất đông. Các dàn nhạc giao hưởng Hoa Kỳ sẽ có rất nhiều nhạc sĩ vĩ cầm, dương cầm hay trung hồ cầm gốc Hoa... Làn sóng đó đang trào dâng.
Chúng ta vừa mất Thảo Trường. Với người viết là cây bút vững chãi và điêu luyện nhất không chỉ của miền Nam mà của cả nước Việt trong và ngoài từ mấy chục năm qua. Nhưng ngoài một số độc giả và bằng hữu, ít ai nhắc tới ông. Văn chương thế giới thì có lẽ cũng chẳng biết tới. Nếu Thảo Trường mà viết bằng Anh ngữ, hoặc có người chuyển ngữ tác phẩm của ông thì có lẽ sự thể đã khác.
Dù sao thì cũng đừng buồn. Nếu được biết về chuyện của chúng ta, đôi khi Cừu Tiểu Long có lời an ủi. Ngày đặt chân tới St. Louis vào năm 1988, ông tò mò hỏi dân chúng đường đến ngôi nhà xưa của nhà thơ T.S. Eliot và đều được mọi người hỏi lại: “T.S. Eliot là ai vậy?”
Chúng ta là ai vậy?
Giấc mơ hồi hương
Quỳnh Giao
Ðôi khi với các nhạc sĩ sáng tác ca khúc, sự thành công có thể đến với họ khá bất ngờ.
Ðiều này thường xảy ra chứ không phải là hiếm, và làm chính tác giả ngạc nhiên. Thí dụ như Văn Phụng đã sáng tác từ trước 1954, và ca khúc đầu tiên của ông là “Ðóa Hồng Nhung” cho đến bây giờ không ai hát và biết đến. Ông kể rằng tự mình gửi vào đài phát thanh Pháp Á nhờ danh ca Minh Trang hát ca khúc đầu tay này, và khi ấy còn tưởng Minh Trang trẻ hơn mình nên đề tặng “mến tặng Minh Trang.” Ðến khi di cư vào Nam, lên đài phát thanh Quốc Gia để đàn cho ban nhạc thì mới gặp bà chị lớn hơn mình nhiều, bèn từ đó chị chị em em! Vậy mà ông vẫn chưa nổi tiếng lắm, cho đến khi “Ô Mê Ly” và “Trăng Sáng Vườn Chè” ra đời thì danh tiếng ông mới bốc như cồn...
Nhạc sĩ Hoàng Trọng viết nhạc từ cuối 1940, có riêng một ban nhạc trên đài phát thanh Hà Nội (Ban Bảo An) vậy mà đến 1951 mới nổi danh nhờ bài “Nhạc Sầu Tương Tư.” Nhạc sĩ Lam Phương khi còn là học trò của Hoàng Lang đã bắt đầu sáng tác, nhưng bài hát đem lại tên tuổi của ông chính là “Duyên Kiếp” mà trẻ con trong ngõ đứa nào cũng biết nghêu ngao “em ơi nếu mộng không thành thi sao???”
Và đây là trường hợp của Vũ Thành, do chính ông nói ra. Sáng tác ca khúc và là trưởng ban Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội là một vị trí sáng chói thời đó khi nền tân nhạc đang chuyển từ thời phôi thai sang đến thời vàng son. Ca khúc đầu tay là “Tình Xuân” mở đầu cho những ca khúc nghệ thuật có âm hưởng bán cổ điển là nét độc đáo riêng của Vũ Thành. Sau đó là một loạt những tuyệt phẩm như “Nhớ Bạn,” “Hương Nhớ Nhung,” sau được đổi tựa lại là “Gửi Áng Mây Hàng,” rồi “Gió Thoảng Hương Duyên,” “Say Nhạc Canh Tàn,” “Ngày Tái Ngộ,” v.v...
Nhưng phải đợi đến khi “Giấc Mơ Hồi Hương” xuất hiện sau 1954, tên tuổi của ông mới bắt đầu quen thuộc với mọi thành phần thính giả. Trước đó Vũ Thành chỉ được một số thính giả nghe nhạc cổ điển hâm mộ mà thôi.
Ông bảo rằng điều đó không làm ông thấy hân hạnh gì mấy. Vì nếu ông nổi tiếng nhờ “Giấc Mơ Hồi Hương” qua lối trình bày thiếu trung thực, không đúng với những điều ông viết thì thành công đó là do lời ca hơn là vì nhạc! Tại sao Vũ Thành nói như vậy thì có lẽ giới thưởng ngoạn không hiểu. Riêng người viết có được ông thổ lộ mới dám ghi nhận lại điều này.
Kể ra thì nhạc sĩ Vũ Thành quá khó tính, chứ bài “Giấc Mơ Hồi Hương” của ông thuộc vào loại sáng tác nghệ thuật như tất cả các tác phẩm khác của ông. Bài hát được viết trên nhịp 3/4 Boston dìu dặt tha thiết, cung Do Trưởng. Mười sáu ô nhạc mở đầu với nhiều intervals rộng, từ nốt thấp là Sol dưới hai dòng kẻ lên tới nốt Mi cao ở khuông thứ tư càng làm rõ sóng lòng dâng ngập. Chuyển đoạn (modulation) của bài mới là tuyệt chiêu khi ông sử dụng những nốt liên ba (triolet) diễn tả nối nhớ nhung lên đến cực điểm.
Nét diễm kiều của Hà Nội trong trí nhớ và sự liên tưởng bàng hoàng nhờ từng câu nhạc. Khi thì lên cao, rồi chuyển từ Trưởng qua thứ, và xuống thật trầm để tả bóng đêm dần tàn mơ hồ... Bài hát hay quá, nên ca sĩ nào cũng thích hát. Dù bài hát soạn cho giọng soprano hay ténor mà thôi, nhưng ai mà dám can? Lối trình bày của đa số khi hát “Giấc Mơ Hồi Hương” thường là “ad lib,” tức là hát tự do, muốn ngừng lấy hơi lúc nào thì ngưng, muốn ngân chữ nào dài hơn hay ngắn hơn cũng được. Ngoài ra còn được đổi luôn nhịp, khi thì hát thành Slow, khi thì hát thành Boléro, và xuống hai ba cung là chuyện thường.
Vì thế mà Vũ Thành mới hối hận. Ông nói nếu lời từ là sự thành công của bài hát thì lời bài “Giấc Mơ Hồi Hương” được gợi ý từ một bài thơ đọc được trên một tạp chí văn nghệ, mà ông chỉ nhớ bài thơ và quên tên tác giả. Quỳnh Giao xin ghi lại bài thơ như sau:
Ðau đớn nhìn Hà Nội
Khuất dần sau sương rơi
Sông Nhị Hà sôi nổi
Cầu Long Biên xa rồi
Mắt nhìn hình ảnh cuối
Lòng thương nhớ khôn nguôi
Nghẹn ngào tâm sự cũ
Thôi rồi Hà Nội ơi...
Vũ Thành quả là người khiêm tốn, vì với Quỳnh Giao lời ca của “Giấc Mơ Hồi Hương” sâu xa và mới hơn ý của bài thơ nguyên thủy. Thời đó, gọi thành phố Hà Nội là “Em” mà không là mới sao? Và lãng mạn quá đi chứ!
Lấy cảm hứng từ bài thơ ấy, đây là lời ca của Vũ Thành, và Quỳnh Giao ghi thêm cả lời hai, được ông viết lại quãng năm 1970:
Lìa xa thành đô yêu dấu
Một sớm khi heo may về
Lòng khách tha hương vương sầu thương
Nhìn em mờ trong mây khói
Bước đi những chưa nỡ rời
Lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly
Rồi đây dù lạc ngàn nơi
Ta hướng về phía xa vời
Tìm mộng xưa lãng quên tháng ngày tàn phai
Nghẹn ngào thương nhớ em, Hà Nội ơi!
Ta nhớ tới em một chiều chớm thu
Dáng yêu kiều của ngày đã qua
Thướt tha bên hồ liễu thưa
Lắng tiếng tiêu hồn của ngàn phím tơ
Thiết tha thề ước mối duyên hờ đã phai mờ
Trong bóng đêm mơ hồ...
Mơ ước thấy em một ngày sáng tươi
Tắm nắng hồng của một sớm mai
Say hương thanh bình khắp nơi
Lắng tiếng uy hùng của từng lớp trai
Cất cao lời hứa xây cuộc đời
Sầu tàn trong bóng đêm dài...
Ðoạn trở về điệp khúc, thay vì hát lại lời một, Vũ Thành soạn lời hai như sau:
Chiều nay nhìn về quê xưa
Hình bóng thân yêu chưa mờ
Gửi tới cố hương chút niềm thương
Tìm em qua bao năm tháng
Vó câu chinh nhân chưa mòn
Ngoài chân mây xa bừng lên muôn ánh hào quang
Rồi đây trên đường hồi hương
Vang tiếng cười chốn xa trường
Cùng dìu nhau sát vai sống trong tình thương
Ðể cùng xây giấc mơ hồi hương...
Lời ca của Vũ Thành đầy cảm xúc, với tâm tư và cảnh sắc lung linh choáng ngợp. Ca khúc đã được rất nhiều người hát, từ Ánh Tuyết, Thái Thanh, Kim Tước, Khánh Ngọc, Mai Hương của giọng nữ cho đến giọng nam của Anh Ngọc, Thanh Vũ, Hùng Cường, Ðoàn Chính, Bùi Thiện... Riêng lời hai của bài này chỉ có hai người hát do chính Vũ Thành đưa ra và yêu cầu là Anh Ngọc và... người viết bài.
Năm xưa, Anh Ngọc hát “Giấc Mơ Hồi Hương” cho chương trình đài Tự Do. Sau đó, khi lên máy bay đi tỵ nạn, Vũ Thành không mang hành lý nào ngoài cuốn tape thu một số bài hát với hòa âm của mình mà ông quý như bảo vật. Còn Quỳnh Giao thì ghi âm vào tape “Hát Cho Kỷ Niệm số 1” ở ngoài này mà chỉ để tặng chứ không bán, với lời giới thiệu của chính Vũ Thành. Giờ này nghe lại vẫn rớt nước mắt...
Ngày nay, người ta đã có thể trở về Hà Nội. Nhưng giấc mơ kia của Vũ Thành vẫn còn nguyên vẹn vì Hà Nội đã đổi khác.
Ðôi khi với các nhạc sĩ sáng tác ca khúc, sự thành công có thể đến với họ khá bất ngờ.
Ðiều này thường xảy ra chứ không phải là hiếm, và làm chính tác giả ngạc nhiên. Thí dụ như Văn Phụng đã sáng tác từ trước 1954, và ca khúc đầu tiên của ông là “Ðóa Hồng Nhung” cho đến bây giờ không ai hát và biết đến. Ông kể rằng tự mình gửi vào đài phát thanh Pháp Á nhờ danh ca Minh Trang hát ca khúc đầu tay này, và khi ấy còn tưởng Minh Trang trẻ hơn mình nên đề tặng “mến tặng Minh Trang.” Ðến khi di cư vào Nam, lên đài phát thanh Quốc Gia để đàn cho ban nhạc thì mới gặp bà chị lớn hơn mình nhiều, bèn từ đó chị chị em em! Vậy mà ông vẫn chưa nổi tiếng lắm, cho đến khi “Ô Mê Ly” và “Trăng Sáng Vườn Chè” ra đời thì danh tiếng ông mới bốc như cồn...
Nhạc sĩ Hoàng Trọng viết nhạc từ cuối 1940, có riêng một ban nhạc trên đài phát thanh Hà Nội (Ban Bảo An) vậy mà đến 1951 mới nổi danh nhờ bài “Nhạc Sầu Tương Tư.” Nhạc sĩ Lam Phương khi còn là học trò của Hoàng Lang đã bắt đầu sáng tác, nhưng bài hát đem lại tên tuổi của ông chính là “Duyên Kiếp” mà trẻ con trong ngõ đứa nào cũng biết nghêu ngao “em ơi nếu mộng không thành thi sao???”
Và đây là trường hợp của Vũ Thành, do chính ông nói ra. Sáng tác ca khúc và là trưởng ban Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội là một vị trí sáng chói thời đó khi nền tân nhạc đang chuyển từ thời phôi thai sang đến thời vàng son. Ca khúc đầu tay là “Tình Xuân” mở đầu cho những ca khúc nghệ thuật có âm hưởng bán cổ điển là nét độc đáo riêng của Vũ Thành. Sau đó là một loạt những tuyệt phẩm như “Nhớ Bạn,” “Hương Nhớ Nhung,” sau được đổi tựa lại là “Gửi Áng Mây Hàng,” rồi “Gió Thoảng Hương Duyên,” “Say Nhạc Canh Tàn,” “Ngày Tái Ngộ,” v.v...
Nhưng phải đợi đến khi “Giấc Mơ Hồi Hương” xuất hiện sau 1954, tên tuổi của ông mới bắt đầu quen thuộc với mọi thành phần thính giả. Trước đó Vũ Thành chỉ được một số thính giả nghe nhạc cổ điển hâm mộ mà thôi.
Ông bảo rằng điều đó không làm ông thấy hân hạnh gì mấy. Vì nếu ông nổi tiếng nhờ “Giấc Mơ Hồi Hương” qua lối trình bày thiếu trung thực, không đúng với những điều ông viết thì thành công đó là do lời ca hơn là vì nhạc! Tại sao Vũ Thành nói như vậy thì có lẽ giới thưởng ngoạn không hiểu. Riêng người viết có được ông thổ lộ mới dám ghi nhận lại điều này.
Kể ra thì nhạc sĩ Vũ Thành quá khó tính, chứ bài “Giấc Mơ Hồi Hương” của ông thuộc vào loại sáng tác nghệ thuật như tất cả các tác phẩm khác của ông. Bài hát được viết trên nhịp 3/4 Boston dìu dặt tha thiết, cung Do Trưởng. Mười sáu ô nhạc mở đầu với nhiều intervals rộng, từ nốt thấp là Sol dưới hai dòng kẻ lên tới nốt Mi cao ở khuông thứ tư càng làm rõ sóng lòng dâng ngập. Chuyển đoạn (modulation) của bài mới là tuyệt chiêu khi ông sử dụng những nốt liên ba (triolet) diễn tả nối nhớ nhung lên đến cực điểm.
Nét diễm kiều của Hà Nội trong trí nhớ và sự liên tưởng bàng hoàng nhờ từng câu nhạc. Khi thì lên cao, rồi chuyển từ Trưởng qua thứ, và xuống thật trầm để tả bóng đêm dần tàn mơ hồ... Bài hát hay quá, nên ca sĩ nào cũng thích hát. Dù bài hát soạn cho giọng soprano hay ténor mà thôi, nhưng ai mà dám can? Lối trình bày của đa số khi hát “Giấc Mơ Hồi Hương” thường là “ad lib,” tức là hát tự do, muốn ngừng lấy hơi lúc nào thì ngưng, muốn ngân chữ nào dài hơn hay ngắn hơn cũng được. Ngoài ra còn được đổi luôn nhịp, khi thì hát thành Slow, khi thì hát thành Boléro, và xuống hai ba cung là chuyện thường.
Vì thế mà Vũ Thành mới hối hận. Ông nói nếu lời từ là sự thành công của bài hát thì lời bài “Giấc Mơ Hồi Hương” được gợi ý từ một bài thơ đọc được trên một tạp chí văn nghệ, mà ông chỉ nhớ bài thơ và quên tên tác giả. Quỳnh Giao xin ghi lại bài thơ như sau:
Ðau đớn nhìn Hà Nội
Khuất dần sau sương rơi
Sông Nhị Hà sôi nổi
Cầu Long Biên xa rồi
Mắt nhìn hình ảnh cuối
Lòng thương nhớ khôn nguôi
Nghẹn ngào tâm sự cũ
Thôi rồi Hà Nội ơi...
Vũ Thành quả là người khiêm tốn, vì với Quỳnh Giao lời ca của “Giấc Mơ Hồi Hương” sâu xa và mới hơn ý của bài thơ nguyên thủy. Thời đó, gọi thành phố Hà Nội là “Em” mà không là mới sao? Và lãng mạn quá đi chứ!
Lấy cảm hứng từ bài thơ ấy, đây là lời ca của Vũ Thành, và Quỳnh Giao ghi thêm cả lời hai, được ông viết lại quãng năm 1970:
Lìa xa thành đô yêu dấu
Một sớm khi heo may về
Lòng khách tha hương vương sầu thương
Nhìn em mờ trong mây khói
Bước đi những chưa nỡ rời
Lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly
Rồi đây dù lạc ngàn nơi
Ta hướng về phía xa vời
Tìm mộng xưa lãng quên tháng ngày tàn phai
Nghẹn ngào thương nhớ em, Hà Nội ơi!
Ta nhớ tới em một chiều chớm thu
Dáng yêu kiều của ngày đã qua
Thướt tha bên hồ liễu thưa
Lắng tiếng tiêu hồn của ngàn phím tơ
Thiết tha thề ước mối duyên hờ đã phai mờ
Trong bóng đêm mơ hồ...
Mơ ước thấy em một ngày sáng tươi
Tắm nắng hồng của một sớm mai
Say hương thanh bình khắp nơi
Lắng tiếng uy hùng của từng lớp trai
Cất cao lời hứa xây cuộc đời
Sầu tàn trong bóng đêm dài...
Ðoạn trở về điệp khúc, thay vì hát lại lời một, Vũ Thành soạn lời hai như sau:
Chiều nay nhìn về quê xưa
Hình bóng thân yêu chưa mờ
Gửi tới cố hương chút niềm thương
Tìm em qua bao năm tháng
Vó câu chinh nhân chưa mòn
Ngoài chân mây xa bừng lên muôn ánh hào quang
Rồi đây trên đường hồi hương
Vang tiếng cười chốn xa trường
Cùng dìu nhau sát vai sống trong tình thương
Ðể cùng xây giấc mơ hồi hương...
Lời ca của Vũ Thành đầy cảm xúc, với tâm tư và cảnh sắc lung linh choáng ngợp. Ca khúc đã được rất nhiều người hát, từ Ánh Tuyết, Thái Thanh, Kim Tước, Khánh Ngọc, Mai Hương của giọng nữ cho đến giọng nam của Anh Ngọc, Thanh Vũ, Hùng Cường, Ðoàn Chính, Bùi Thiện... Riêng lời hai của bài này chỉ có hai người hát do chính Vũ Thành đưa ra và yêu cầu là Anh Ngọc và... người viết bài.
Năm xưa, Anh Ngọc hát “Giấc Mơ Hồi Hương” cho chương trình đài Tự Do. Sau đó, khi lên máy bay đi tỵ nạn, Vũ Thành không mang hành lý nào ngoài cuốn tape thu một số bài hát với hòa âm của mình mà ông quý như bảo vật. Còn Quỳnh Giao thì ghi âm vào tape “Hát Cho Kỷ Niệm số 1” ở ngoài này mà chỉ để tặng chứ không bán, với lời giới thiệu của chính Vũ Thành. Giờ này nghe lại vẫn rớt nước mắt...
Ngày nay, người ta đã có thể trở về Hà Nội. Nhưng giấc mơ kia của Vũ Thành vẫn còn nguyên vẹn vì Hà Nội đã đổi khác.
Chuyện Vô Lý
Quỳnh Giao
Thời nào, người nào cũng có thể thấy nhiều chuyện vô lý trong đời mình.
Thời càng loạn thì chuyện vô lý càng nhiều, như những chuyện của nước ta trong thế kỷ 20 vừa qua. Vì hoàn cảnh ấy, người thấy nhiều chuyện vô lý nhất trên thế gian trong cái thế kỷ loạn lạc nhất ắt hẳn phải là... người Việt Nam!
Ghi lại những chuyện vô lý ấy thì cũng có lắm người.
Nhưng, bật cười viết ra với lòng trung hậu và văn phong dí dỏm thì có lẽ chỉ có Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc. “Chuyện Vô Lý” cũng là tên cuốn sách ông xuất bản năm 1942, sau tác phẩm đầu tay là cuốn “Trước Ðèn” xuất hiện năm 1939. Ðây là những bài phiếm luận viết trên nhật trình, tức là báo ngày, về sau được gom lại xuất bản thành sách.
Giờ này, khi thế kỷ 21 đã tròn mười tuổi, mà nhắc đến những bài phiếm của bảy chục năm trước, khi đất nước chưa lâm vào những cảnh thậm vô lý, thì có phải là... vô lý không? Vậy mà ngòi bút tạp ghi này vẫn cứ muốn ghi lại, sau khi lần giở lại từng bài phiếm của Lãng Nhân.
Nhớ lại thì vào khoảng thời gian 1940 ấy, tân nhạc Việt Nam mới bắt đầu phôi thai, với các tác phẩm đầu tay đã có thể đi vào lãng quên, và những tác phẩm gần đây thì cũng không đáng nhớ. Hình ảnh cây cầu vồng ngũ sắc để lại những dư âm chói lòa mà mất dần cái thời vang bóng là một lối nói về tân nhạc Việt Nam. Nhờ Lãng Nhân trong “Chuyện Vô Lý,” người viết biết là lối so sánh ấy gọi là “quá thực ngữ,” tiếng Pháp gọi là “hyperbole.”
Trong cùng khoảng thời gian ấy, văn học đã trải qua mấy đợt thác ghềnh và thoát xác. Có khi còn bị lột da lột xác như sau năm 1975.
Từ thời Nam Phong cổ kính bị tờ Phong Hóa của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn chế diễu bài xích vì tội cổ hủ, qua đến thời Sáng Tạo nổi lên ở trong Nam đã cười cợt cái phong hóa cổ lỗ của Tự Lực Văn Ðoàn, chúng ta có thấy bút chiến tưng bừng và cãi nhau tóe mực. Sau đó, đến lượt anh em trong Sáng Tạo cũng được “cách mạng” trong ngoặc kép cho vào hầm tối. Rồi văn học kiểu cách mạng ấy còn bị đào thải nhanh hơn vậy!
Trong khung cảnh ấy, ngồi đọc lại Lãng Nhân thì mới thấy ông là cây bút tối tân.
Vượt qua ngần ấy chặng đường và chứng kiến bao cảnh trang thương, ông vẫn là ông với văn phong cứ như mới. Trẻ mãi không già là con người ấy. Lời chúc “sống lâu trăm tuổi” cũng ứng vào ông. Lãng Nhân sinh năm 1907 tại Hà Nội và mất năm 2008 tại Cambridge, bên Anh.
Tác phẩm “Chuyện Vô Lý,” xuất bản năm 1942. (Hình: sachxua.net)
Có lẽ bút hiệu Lãng Nhân của ông xuất phát từ một tích xưa của Nhật về 47 tay “lãng nhân” hay “ronins,” biểu tượng của sự chung thủy trong một thiên anh hùng ca của các võ sĩ đạo Nhật Bản. Ông còn dùng bút hiệu Cố Nhi Tân để viết về chuyện xưa. Khi lưu vong tại Anh thì lấy bút hiệu là Tị Tần, ông muốn xác định tư thế tỵ nạn chế độ bạo Tần.
Ngày nay, khi đọc tin thấy ngần ấy hoa hậu Việt Nam ngồi cho dăm ba người Ðại Hàn, Ðài Loan chấm làm vợ, chúng ta cho là chuyện vô lý, vô đạo. Lãng Nhân đã nói phiếm về chuyện cũng vô lý như vậy dưới thời thực dân Pháp. Mấy chục năm sau khi giới thiệu thiên phóng sự “Kỹ Nghệ Lấy Tây” của Vũ Trọng Phụng, ông không ngờ là nước ta lại có “Quốc Sách Lấy Tầu”! Ðâm ra trái đất xoay đủ một vòng và nước ta lại quay về chốn cũ!
Những chuyện như vậy thì nhiều lắm, đọc xong nước mắt bỗng cay xè. Nếu đọc lại bài “Lời Người Bán Cám” thì mình hiểu. Nhưng lâu lâu lại được tác giả an ủi cho, với một lời châm biếm làm bật cười.
Lãng Nhân là người tân tiến mà nệ cổ trong cách viết. Các từ kép đều có gạch nối cẩn thận, như thầy cô ngày xưa đã dạy chúng ta. May lắm, ngày nay chỉ còn ông Nguyễn Ngọc Bích là giữ lối viết đó.
Nhưng đấy chỉ là cách viết để nhấn mạnh đến xuất xứ và ý nghĩa của ngôn từ. Còn về văn phong thì Lãng Nhân quả là người hiện đại. Ðọc lại vẫn như mới. Còn hay hơn nhiều bài phiếm của thời nay ở cách chấm câu, ngắt dòng, bằng lối dùng chữ súc tích dù rằng khi đó chữ nghĩa của ta không nhiều như ngày nay. Còn ngòi bút ông thì sắc như một lát dao.
Xin hãy thưởng thức lại một đoạn:
“Thịt da ai cũng là người, nay nhờ có bác-sĩ ta mới biết có thứ da thịt annam, có thứ da thịt tây.”
Tác giả viết về “Ông Tây Nam Annam” như vậy. Và ông dí dỏm “Lẩy Kiều” với câu “thịt da ai cũng là người” để gợi lại chuyện nàng Kiều bị đánh. Rồi tủm tỉm luận tiếp về sự khác biệt.
“Thế thì ta có khác tây về da thịt đi nữa, cũng là lẽ tự nhiên.
“Song khác nhau như thế nào?
“Có người sành sỏi bảo rằng: thịt tây to thớ, da tây trắng và nhiều lông; còn thịt ta nhỏ thớ, da ta vàng và ít lông.”
Ðó mới chỉ là so sánh về ngoại hình thôi. Lãng Nhân tinh quái thọc dao vào dưới mô bì:
“Cứ kể nhận như thế cũng là rành lắm rồi. Nhưng tôi tưởng da tây, thứ nhất là da tây ở dưới trời thuộc địa, còn có cái đặc tính là gây hơn da ta, nhưng quý giá vô cùng: hễ ai chạm đến là tù tội.”
“Còn da ta thì dầy dặn, có thể quất bằng gân bò, tát bằng ngón tay chuối mắn, đá bằng giầy đinh, hay đem đốt bằng nến như ở Hà-Tiên vừa rồi, cũng cứ gọi là trắng án như thường.”
Lãng Nhân là người tinh thông Hán học, lại là tự học vì bị đuổi khỏi trường Bưởi sau khi biểu tình chống Pháp. Mà ông lại học chữ Hán từ... sách Pháp nên lầu thông cả hai. Ðọc bài ông viết về khoa tu từ của văn chương Pháp so với cách viết của ta thì mình phải khâm phục sự uyên bác. Ông thấm nhuần văn hóa Pháp và dịch thơ Tây rất đẹp. Ông lại thuộc điển Tầu, tích gì cũng tìm hiểu, nghiên cứu và hỏi han đến nơi đến chốn. Cuốn “Giai Thoại Làng Nho” của ông có cho thấy một phần của sự uyên bác ấy.
Nhưng, thủy chung thì ông làm giàu cho tiếng Việt, cho chữ quốc ngữ. Ông luận bàn chuyện gì thì cũng trở lại cái hồn Việt Nam, đề cao cái tinh túy Việt Nam qua chuyện xưa tích cũ. Trong các trận bút chiến thời trước, ông có tham dự, nhưng với tinh thần hòa giải Ðông Tây Cũ Mới, chứ không quá cực đoan gay gắt.
Và lời châm biếm của ông cũng nhẹ nhàng, nhuốm mùi hài hước trong tinh thần “cười cợt để sửa lại phong hóa,” như tên một bài phiếm của ông trong cuốn “Trước Ðèn”à
Trong cõi đời có quá nhiều chuyện vô lý này, nếu có đem “Chuyện Vô Lý” của Lãng Nhân ra đọc lại thì cũng là điều có lý. Xin hãy đọc lại để nhớ ơn người xưa.
Thời nào, người nào cũng có thể thấy nhiều chuyện vô lý trong đời mình.
Thời càng loạn thì chuyện vô lý càng nhiều, như những chuyện của nước ta trong thế kỷ 20 vừa qua. Vì hoàn cảnh ấy, người thấy nhiều chuyện vô lý nhất trên thế gian trong cái thế kỷ loạn lạc nhất ắt hẳn phải là... người Việt Nam!
Ghi lại những chuyện vô lý ấy thì cũng có lắm người.
Nhưng, bật cười viết ra với lòng trung hậu và văn phong dí dỏm thì có lẽ chỉ có Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc. “Chuyện Vô Lý” cũng là tên cuốn sách ông xuất bản năm 1942, sau tác phẩm đầu tay là cuốn “Trước Ðèn” xuất hiện năm 1939. Ðây là những bài phiếm luận viết trên nhật trình, tức là báo ngày, về sau được gom lại xuất bản thành sách.
Giờ này, khi thế kỷ 21 đã tròn mười tuổi, mà nhắc đến những bài phiếm của bảy chục năm trước, khi đất nước chưa lâm vào những cảnh thậm vô lý, thì có phải là... vô lý không? Vậy mà ngòi bút tạp ghi này vẫn cứ muốn ghi lại, sau khi lần giở lại từng bài phiếm của Lãng Nhân.
Nhớ lại thì vào khoảng thời gian 1940 ấy, tân nhạc Việt Nam mới bắt đầu phôi thai, với các tác phẩm đầu tay đã có thể đi vào lãng quên, và những tác phẩm gần đây thì cũng không đáng nhớ. Hình ảnh cây cầu vồng ngũ sắc để lại những dư âm chói lòa mà mất dần cái thời vang bóng là một lối nói về tân nhạc Việt Nam. Nhờ Lãng Nhân trong “Chuyện Vô Lý,” người viết biết là lối so sánh ấy gọi là “quá thực ngữ,” tiếng Pháp gọi là “hyperbole.”
Trong cùng khoảng thời gian ấy, văn học đã trải qua mấy đợt thác ghềnh và thoát xác. Có khi còn bị lột da lột xác như sau năm 1975.
Từ thời Nam Phong cổ kính bị tờ Phong Hóa của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn chế diễu bài xích vì tội cổ hủ, qua đến thời Sáng Tạo nổi lên ở trong Nam đã cười cợt cái phong hóa cổ lỗ của Tự Lực Văn Ðoàn, chúng ta có thấy bút chiến tưng bừng và cãi nhau tóe mực. Sau đó, đến lượt anh em trong Sáng Tạo cũng được “cách mạng” trong ngoặc kép cho vào hầm tối. Rồi văn học kiểu cách mạng ấy còn bị đào thải nhanh hơn vậy!
Trong khung cảnh ấy, ngồi đọc lại Lãng Nhân thì mới thấy ông là cây bút tối tân.
Vượt qua ngần ấy chặng đường và chứng kiến bao cảnh trang thương, ông vẫn là ông với văn phong cứ như mới. Trẻ mãi không già là con người ấy. Lời chúc “sống lâu trăm tuổi” cũng ứng vào ông. Lãng Nhân sinh năm 1907 tại Hà Nội và mất năm 2008 tại Cambridge, bên Anh.
Tác phẩm “Chuyện Vô Lý,” xuất bản năm 1942. (Hình: sachxua.net)
Có lẽ bút hiệu Lãng Nhân của ông xuất phát từ một tích xưa của Nhật về 47 tay “lãng nhân” hay “ronins,” biểu tượng của sự chung thủy trong một thiên anh hùng ca của các võ sĩ đạo Nhật Bản. Ông còn dùng bút hiệu Cố Nhi Tân để viết về chuyện xưa. Khi lưu vong tại Anh thì lấy bút hiệu là Tị Tần, ông muốn xác định tư thế tỵ nạn chế độ bạo Tần.
Ngày nay, khi đọc tin thấy ngần ấy hoa hậu Việt Nam ngồi cho dăm ba người Ðại Hàn, Ðài Loan chấm làm vợ, chúng ta cho là chuyện vô lý, vô đạo. Lãng Nhân đã nói phiếm về chuyện cũng vô lý như vậy dưới thời thực dân Pháp. Mấy chục năm sau khi giới thiệu thiên phóng sự “Kỹ Nghệ Lấy Tây” của Vũ Trọng Phụng, ông không ngờ là nước ta lại có “Quốc Sách Lấy Tầu”! Ðâm ra trái đất xoay đủ một vòng và nước ta lại quay về chốn cũ!
Những chuyện như vậy thì nhiều lắm, đọc xong nước mắt bỗng cay xè. Nếu đọc lại bài “Lời Người Bán Cám” thì mình hiểu. Nhưng lâu lâu lại được tác giả an ủi cho, với một lời châm biếm làm bật cười.
Lãng Nhân là người tân tiến mà nệ cổ trong cách viết. Các từ kép đều có gạch nối cẩn thận, như thầy cô ngày xưa đã dạy chúng ta. May lắm, ngày nay chỉ còn ông Nguyễn Ngọc Bích là giữ lối viết đó.
Nhưng đấy chỉ là cách viết để nhấn mạnh đến xuất xứ và ý nghĩa của ngôn từ. Còn về văn phong thì Lãng Nhân quả là người hiện đại. Ðọc lại vẫn như mới. Còn hay hơn nhiều bài phiếm của thời nay ở cách chấm câu, ngắt dòng, bằng lối dùng chữ súc tích dù rằng khi đó chữ nghĩa của ta không nhiều như ngày nay. Còn ngòi bút ông thì sắc như một lát dao.
Xin hãy thưởng thức lại một đoạn:
“Thịt da ai cũng là người, nay nhờ có bác-sĩ ta mới biết có thứ da thịt annam, có thứ da thịt tây.”
Tác giả viết về “Ông Tây Nam Annam” như vậy. Và ông dí dỏm “Lẩy Kiều” với câu “thịt da ai cũng là người” để gợi lại chuyện nàng Kiều bị đánh. Rồi tủm tỉm luận tiếp về sự khác biệt.
“Thế thì ta có khác tây về da thịt đi nữa, cũng là lẽ tự nhiên.
“Song khác nhau như thế nào?
“Có người sành sỏi bảo rằng: thịt tây to thớ, da tây trắng và nhiều lông; còn thịt ta nhỏ thớ, da ta vàng và ít lông.”
Ðó mới chỉ là so sánh về ngoại hình thôi. Lãng Nhân tinh quái thọc dao vào dưới mô bì:
“Cứ kể nhận như thế cũng là rành lắm rồi. Nhưng tôi tưởng da tây, thứ nhất là da tây ở dưới trời thuộc địa, còn có cái đặc tính là gây hơn da ta, nhưng quý giá vô cùng: hễ ai chạm đến là tù tội.”
“Còn da ta thì dầy dặn, có thể quất bằng gân bò, tát bằng ngón tay chuối mắn, đá bằng giầy đinh, hay đem đốt bằng nến như ở Hà-Tiên vừa rồi, cũng cứ gọi là trắng án như thường.”
Lãng Nhân là người tinh thông Hán học, lại là tự học vì bị đuổi khỏi trường Bưởi sau khi biểu tình chống Pháp. Mà ông lại học chữ Hán từ... sách Pháp nên lầu thông cả hai. Ðọc bài ông viết về khoa tu từ của văn chương Pháp so với cách viết của ta thì mình phải khâm phục sự uyên bác. Ông thấm nhuần văn hóa Pháp và dịch thơ Tây rất đẹp. Ông lại thuộc điển Tầu, tích gì cũng tìm hiểu, nghiên cứu và hỏi han đến nơi đến chốn. Cuốn “Giai Thoại Làng Nho” của ông có cho thấy một phần của sự uyên bác ấy.
Nhưng, thủy chung thì ông làm giàu cho tiếng Việt, cho chữ quốc ngữ. Ông luận bàn chuyện gì thì cũng trở lại cái hồn Việt Nam, đề cao cái tinh túy Việt Nam qua chuyện xưa tích cũ. Trong các trận bút chiến thời trước, ông có tham dự, nhưng với tinh thần hòa giải Ðông Tây Cũ Mới, chứ không quá cực đoan gay gắt.
Và lời châm biếm của ông cũng nhẹ nhàng, nhuốm mùi hài hước trong tinh thần “cười cợt để sửa lại phong hóa,” như tên một bài phiếm của ông trong cuốn “Trước Ðèn”à
Trong cõi đời có quá nhiều chuyện vô lý này, nếu có đem “Chuyện Vô Lý” của Lãng Nhân ra đọc lại thì cũng là điều có lý. Xin hãy đọc lại để nhớ ơn người xưa.
Viết cho Bố
Quỳnh Giao
Ngày còn bé, tôi thèm có cha vì mất ông từ khi mình mới lên năm.
Sau đấy, hàng năm, cứ mỗi ngày khai trường thấy bạn bè có bố mẹ đưa đi nhập học, tôi lại thấy tủi thân vì không có ai để gọi bằng bố. Khi thân mẫu tái giá với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, các em gọi ông bằng bố, còn anh Minh và người viết gọi ông bằng “cậu.” Cứ thế nên tôi thèm tiếng “bố” biết bao.
Tôi lập gia đình năm 1968, người hôn phối trước mồ côi cả cha lẫn mẹ, chỉ còn người chú và hai người cậu, tất cả chị em đều ở ngoài Bắc. Tôi lại vẫn chưa được gọi bố bao giờ!
Khi thành hôn với anh Nghĩa, tôi được gặp bố mẹ chồng và một gia đình tám anh chị em gắn bó quây quần. Mẹ tôi cũng vui mừng khi gặp gia đình bên chồng tôi, rất Tây học và vô cùng phóng khoáng. Dù xuất thân từ một gia đình cổ kính, tính mẹ tôi xưa nay vẫn hào sảng và phong lưu rất mực. Khi đi dự tiệc ra mắt họ hàng của chúng tôi, em gái út của tôi là Vân Dung vui mừng nói: “lần đầu nghe chị Trang gọi ‘bố’ đấy!”
Nghe cả nhà kể chuyện bố mẹ thành hôn gần bảy chục năm trước thì quả là ly kỳ.
Chẳng là mẹ của chúng tôi khi xưa là hoa khôi. Bà đẹp nổi tiếng nên còn đi học mà đã có nhiều người bắn tiếng dạm hỏi. Còn bố chỉ là một thư sinh chỉ có manh áo the trên chiếc xe đạp không “phanh” mà cũng chẳng có “garde boue”! Cứ nghe thấy ông tham này hay ông biện nọ tính hỏi người đẹp của mình, ông đạp xe tới tận nhà người ta dọa đánh vì một lý do ông cho là cực kỳ chính đáng: “Vì tôi yêu cô Thảo! Biết chưa?” Những gia đình Hà Nội kia thấy vậy đều ớn. Lại nghe nói là anh chàng du côn này có học đánh bốc, và vô địch bơi lội nữa đấy!
Có lẽ nhờ bác Châu (anh của mẹ) lại là anh rể của bố vì lấy bác Bảo (chị gái của bố) nên bố tôi chả phải “uýnh lộn” với ai mà vẫn chiếm được trái tim của mẹ sau khi khai quang dọn sạch chu vi chung quanh người đẹp. Nhưng tôi thì nghĩ rằng mẹ phải lòng bố là đúng rồi, vì bố chúng tôi thuộc loại đẹp trai, còn rất trẻ vì hơn có hai tuổi, lại học giỏi nữa, còn ai xứng đôi hơn...
Là con trai trưởng, bố tôi tự lập từ trẻ. Ông phụng dưỡng cha mẹ và nuôi nấng ba em trai và bầy con tám đứa. Từ Hải Phòng ra đến Hà Nội, rồi từ Hà Nội di cư vào Nam. Cuộc đời khi lên khi xuống, ông gánh vác lo toan cho cả nhà. Mẹ tôi được bạn bè khen là tốt phúc vì có chồng tốt, sống phong lưu và hạnh phúc cả đời. Mẹ là người thích đọc sách, bố lại là người ham hành động cho nên hai người thật ra rất hợp nhau. Bố thuộc loại cái gì cũng giỏi, học giỏi đã đành, ông còn nhẩy đầm điệu nghệ, chơi “mạt chược” thuộc loại cao thủ, và ăn diện rất bảnh bao. Mẹ tôi khi trẻ có lẽ cũng đôi lần ghen tuông vì bố có nhiều người ái mộ, nhưng bố chỉ yêu mình mẹ, lại thêm bà nội cũng thương và bảo vệ con dâu kỹ lắm! Các người đẹp quanh bố chịu thua chứ làm gì nữa!
Năm 1975 lại một lần di tản cùng gia đình, bố mẹ gom góp tiền bạc mở cây xăng ở San Francisco nhưng tâm trí của bố không nằm ở đó. Là một doanh gia thành công ở nhà, ông chỉ mơ xây dựng những dự án trọng đại cho Việt Nam nên tiền bạc trút hết vào máy móc cơ xưởng. Khi ông ra đi là đi trắng tay, đành mở trạm xăng qua ngày và sau cùng lại dẹp. Ông dọn đi Texas làm việc kiểm tra ngành xây cất rồi sau đó lại về quận Cam nghỉ hưu cho gần con cái.
Suốt đời ông tận tụy làm việc siêng năng, nhiều công trình ông thiết kế ngày nay vẫn còn và nổi tiếng là bền. Trên bảy mươi ông vẫn muốn làm việc có ích cho xã hội, cho quê hương và hay nói về hoài bão của mình mà nhiều người không hiểu!
Bố ít nói ra nhưng dạy cho chúng tôi rất nhiều qua cách hành xử: là chăm chỉ làm việc, rộng rãi với gia đình và bạn bè. Ðiều mà riêng tôi thú vị nhất là tính “đỏm dáng” của ông! Ông luôn luôn ăn mặc đẹp, nước hoa thơm tho, và nhất nụ cười luôn nở trên môi. Ngày đầu tiên gặp ông cách đây hơn hai chục năm, thấy tôi ông nở nụ cười, tôi thấy lòng như nở hoa...
Từ đấy, mỗi khi gặp ông, tôi lo mặc áo quần đẹp đẽ, hợp thời. Ngay cả khi ông bị bệnh, phải vào trong home care, lũ chúng tôi bảo nhau phải ăn mặc đẹp khi vào hầu thăm bố. Khi thấy con cháu tươi tốt, đẹp đẽ, ông tỏ vẻ vui. Tôi được giao nhiệm vụ mua “eau de cologne” cho bố và đến cắt tóc cho bố hàng tháng, hãnh diện lắm chứ!
Từ khi bố yếu, mẹ dọn về ở nhà Cẩm Anh, đứa con gái út nhà ở gần Orange Hill xa tắp. Mẹ tôi mỗi tuần đi xe bus vào thăm bố hai ba lần, rồi lại đi xe bus về. Ngồi bên cạnh nhau trong phòng, đôi lần tôi bắt gặp bố nắm tay mẹ thật chặt, lòng bỗng thấy xốn xang.
Bố nằm như thế trong hơn hai năm trời, ngày một yếu dần. Cuối cùng thì ông bị sưng phổi, phải đưa vào bịnh viện. Cả cơ thể suy nhược nên nhà thương đành bó tay. Hai ngày sau khi rời khỏi nhà thương, ông ra đi thanh thản nhẹ nhàng. Tám người con từ các nơi kịp thời tụ về thăm bố, và gia đình hai người em trai của ông đều có mặt. Giây phút cuối, ông được Hòa Thượng Chơn Thành đến bên giường nói chuyện và tụng kinh rồi một giờ sau là đi, da dẻ hồng hào, tươi tốt, mịn màng. Bố thật là may mắn và có phúc.
Bố ơi, bố thường khen con thật thà. Hôm nay con viết những lời thật thà này vì nhớ bố, thương mẹ. Từ trên ấy, bố biết chắc lũ con cháu sẽ luôn thương yêu nhau và lo lắng cho mẹ thay bố. Bố hãy yên tâm, thư thái nhé bố...
Ngày còn bé, tôi thèm có cha vì mất ông từ khi mình mới lên năm.
Sau đấy, hàng năm, cứ mỗi ngày khai trường thấy bạn bè có bố mẹ đưa đi nhập học, tôi lại thấy tủi thân vì không có ai để gọi bằng bố. Khi thân mẫu tái giá với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, các em gọi ông bằng bố, còn anh Minh và người viết gọi ông bằng “cậu.” Cứ thế nên tôi thèm tiếng “bố” biết bao.
Tôi lập gia đình năm 1968, người hôn phối trước mồ côi cả cha lẫn mẹ, chỉ còn người chú và hai người cậu, tất cả chị em đều ở ngoài Bắc. Tôi lại vẫn chưa được gọi bố bao giờ!
Khi thành hôn với anh Nghĩa, tôi được gặp bố mẹ chồng và một gia đình tám anh chị em gắn bó quây quần. Mẹ tôi cũng vui mừng khi gặp gia đình bên chồng tôi, rất Tây học và vô cùng phóng khoáng. Dù xuất thân từ một gia đình cổ kính, tính mẹ tôi xưa nay vẫn hào sảng và phong lưu rất mực. Khi đi dự tiệc ra mắt họ hàng của chúng tôi, em gái út của tôi là Vân Dung vui mừng nói: “lần đầu nghe chị Trang gọi ‘bố’ đấy!”
Nghe cả nhà kể chuyện bố mẹ thành hôn gần bảy chục năm trước thì quả là ly kỳ.
Chẳng là mẹ của chúng tôi khi xưa là hoa khôi. Bà đẹp nổi tiếng nên còn đi học mà đã có nhiều người bắn tiếng dạm hỏi. Còn bố chỉ là một thư sinh chỉ có manh áo the trên chiếc xe đạp không “phanh” mà cũng chẳng có “garde boue”! Cứ nghe thấy ông tham này hay ông biện nọ tính hỏi người đẹp của mình, ông đạp xe tới tận nhà người ta dọa đánh vì một lý do ông cho là cực kỳ chính đáng: “Vì tôi yêu cô Thảo! Biết chưa?” Những gia đình Hà Nội kia thấy vậy đều ớn. Lại nghe nói là anh chàng du côn này có học đánh bốc, và vô địch bơi lội nữa đấy!
Có lẽ nhờ bác Châu (anh của mẹ) lại là anh rể của bố vì lấy bác Bảo (chị gái của bố) nên bố tôi chả phải “uýnh lộn” với ai mà vẫn chiếm được trái tim của mẹ sau khi khai quang dọn sạch chu vi chung quanh người đẹp. Nhưng tôi thì nghĩ rằng mẹ phải lòng bố là đúng rồi, vì bố chúng tôi thuộc loại đẹp trai, còn rất trẻ vì hơn có hai tuổi, lại học giỏi nữa, còn ai xứng đôi hơn...
Là con trai trưởng, bố tôi tự lập từ trẻ. Ông phụng dưỡng cha mẹ và nuôi nấng ba em trai và bầy con tám đứa. Từ Hải Phòng ra đến Hà Nội, rồi từ Hà Nội di cư vào Nam. Cuộc đời khi lên khi xuống, ông gánh vác lo toan cho cả nhà. Mẹ tôi được bạn bè khen là tốt phúc vì có chồng tốt, sống phong lưu và hạnh phúc cả đời. Mẹ là người thích đọc sách, bố lại là người ham hành động cho nên hai người thật ra rất hợp nhau. Bố thuộc loại cái gì cũng giỏi, học giỏi đã đành, ông còn nhẩy đầm điệu nghệ, chơi “mạt chược” thuộc loại cao thủ, và ăn diện rất bảnh bao. Mẹ tôi khi trẻ có lẽ cũng đôi lần ghen tuông vì bố có nhiều người ái mộ, nhưng bố chỉ yêu mình mẹ, lại thêm bà nội cũng thương và bảo vệ con dâu kỹ lắm! Các người đẹp quanh bố chịu thua chứ làm gì nữa!
Năm 1975 lại một lần di tản cùng gia đình, bố mẹ gom góp tiền bạc mở cây xăng ở San Francisco nhưng tâm trí của bố không nằm ở đó. Là một doanh gia thành công ở nhà, ông chỉ mơ xây dựng những dự án trọng đại cho Việt Nam nên tiền bạc trút hết vào máy móc cơ xưởng. Khi ông ra đi là đi trắng tay, đành mở trạm xăng qua ngày và sau cùng lại dẹp. Ông dọn đi Texas làm việc kiểm tra ngành xây cất rồi sau đó lại về quận Cam nghỉ hưu cho gần con cái.
Suốt đời ông tận tụy làm việc siêng năng, nhiều công trình ông thiết kế ngày nay vẫn còn và nổi tiếng là bền. Trên bảy mươi ông vẫn muốn làm việc có ích cho xã hội, cho quê hương và hay nói về hoài bão của mình mà nhiều người không hiểu!
Bố ít nói ra nhưng dạy cho chúng tôi rất nhiều qua cách hành xử: là chăm chỉ làm việc, rộng rãi với gia đình và bạn bè. Ðiều mà riêng tôi thú vị nhất là tính “đỏm dáng” của ông! Ông luôn luôn ăn mặc đẹp, nước hoa thơm tho, và nhất nụ cười luôn nở trên môi. Ngày đầu tiên gặp ông cách đây hơn hai chục năm, thấy tôi ông nở nụ cười, tôi thấy lòng như nở hoa...
Từ đấy, mỗi khi gặp ông, tôi lo mặc áo quần đẹp đẽ, hợp thời. Ngay cả khi ông bị bệnh, phải vào trong home care, lũ chúng tôi bảo nhau phải ăn mặc đẹp khi vào hầu thăm bố. Khi thấy con cháu tươi tốt, đẹp đẽ, ông tỏ vẻ vui. Tôi được giao nhiệm vụ mua “eau de cologne” cho bố và đến cắt tóc cho bố hàng tháng, hãnh diện lắm chứ!
Từ khi bố yếu, mẹ dọn về ở nhà Cẩm Anh, đứa con gái út nhà ở gần Orange Hill xa tắp. Mẹ tôi mỗi tuần đi xe bus vào thăm bố hai ba lần, rồi lại đi xe bus về. Ngồi bên cạnh nhau trong phòng, đôi lần tôi bắt gặp bố nắm tay mẹ thật chặt, lòng bỗng thấy xốn xang.
Bố nằm như thế trong hơn hai năm trời, ngày một yếu dần. Cuối cùng thì ông bị sưng phổi, phải đưa vào bịnh viện. Cả cơ thể suy nhược nên nhà thương đành bó tay. Hai ngày sau khi rời khỏi nhà thương, ông ra đi thanh thản nhẹ nhàng. Tám người con từ các nơi kịp thời tụ về thăm bố, và gia đình hai người em trai của ông đều có mặt. Giây phút cuối, ông được Hòa Thượng Chơn Thành đến bên giường nói chuyện và tụng kinh rồi một giờ sau là đi, da dẻ hồng hào, tươi tốt, mịn màng. Bố thật là may mắn và có phúc.
Bố ơi, bố thường khen con thật thà. Hôm nay con viết những lời thật thà này vì nhớ bố, thương mẹ. Từ trên ấy, bố biết chắc lũ con cháu sẽ luôn thương yêu nhau và lo lắng cho mẹ thay bố. Bố hãy yên tâm, thư thái nhé bố...
Trưng Nữ Vương
Quỳnh Giao
Người viết tự dưng nhớ lại các ca khúc về Hai Bà Trưng vì đọc báo thấy có người mình qua tận tỉnh Quảng Tây bên kia biên giới để lên đồng hay múa hát gì đó trước miếu thờ Phục Ba Tướng Quân Mã Viện!
Trong kho tàng tân nhạc của chúng ta, thời kỳ phôi thai lại có nhiều tác phẩm viết về lịch sử nhất. Vì thời đó các tác giả đều ở lứa tuổi thanh niên nức lòng ái quốc, hay là vì khi đó nước ta đã chớm thấy hy vọng độc lập?
Riêng về Hai Bà Trưng, chúng ta có ba ca khúc tiêu biểu ca tụng công đức hai bà. Ðó là “Hồ Lãng Bạc” của Xuân Tùng, “Ngày Xưa” của Hoàng Phú và “ Trưng Nữ Vương” của Thẩm Oánh. Xin hãy lần lượt nhớ lại từng bài, trước tiên là “Hồ Lãng Bạc.”
Hình như nhạc sĩ Xuân Tùng chỉ sáng tác có mỗi bài này, hoặc nếu ông có các tác phẩm khác thì chúng không được phổ biến chăng?.. Nhưng chỉ riêng với “Hồ Lãng Bạc” ông đáng được biết đến vì lời từ và về nhạc thuật. Bài hát viết trên nhịp luân vũ ¾ âm giai Trưởng trong sáng, rất thích hợp với lời tả cảnh, dạt dào sóng nước:
Thuyền bơi dẻo lướt trên hồ đầy nước trong
Bọt tung theo sóng kêu dạt dào
Buồm căng nặng gió mang thuyền đi lướt nhanh
Én nhào trên nước lóng lánh
Bờ xa bát ngát ven trời mây sóng đưa
Thành cây xa tắp trong mây mờ
Hồ Tây đây chốn tranh hùng Trưng Nữ Vương
Khiến người như thấy bâng khuâng
Ðoạn đầu diễn tả cảnh sông nước và nỗi ngậm ngùi. Sau đó, đến chuyển đoạn thì nhạc và lời cùng thay đổi. Mỗi nhịp đều được nhấn mạnh (temps fort) và dứt khoát như lòng quật cường trong trận mạc:
Thề quyết chiến, liều xông lên, thét hùng oai nữ nhi
Gào gió thét, ầm sóng vỗ, thế cùng không chút sờn
Hồ vẫn đấy, người xưa đâu, sóng hùng ghi nữ anh
Buồm quyến gió, thuyền rẽ sóng, phía trời mây nước thanh
......
Bài ca trong sáng và cảm động này, ngày xưa, Quỳnh Giao hay song ca với người anh Bửu Minh (biệt hiệu là “Anh Minh”) khi mới lên bảy trong ban thiếu sinh nhi đồng. Hát với tên thật là Ðoan Trang - vì nít quá chưa có biệt hiệu hay nghệ danh gì!
Nhạc phẩm thứ hai viết về Hai Bà là “Ngày Xưa” của Hoàng Phú, là tên của nhạc sĩ Tô Vũ. Thời kỳ mới sáng tác các bài hát ngợi ca lịch sử, Hoàng Phú cùng anh là Hoàng Quý đã dùng nhạc khơi lên bầu nhiệt huyết trong sáng hồn hậu của thanh niên. Từ “Tiếng Chim Gọi Ðàn” đến “Nước Non Lam Sơn,” từ “Bóng Cờ Lau” đến “ Ngày Xưa,” là cả một tấm lòng tha thiết với quê hương và tổ quốc. Hãy nghe lại lời Hoàng Phú kể chuyện:
Dòng sông Hát nước xanh mờ sâu
Êm đềm trôi về tới nơi đâu?
Sóng đưa lăn tăn con thuyền ai xuôi
Theo gió khơi tiếng ca âm thầm trầm rơi
Ngày xưa kia nơi đây đã từng vanh hình bóng
Ðôi quần thoa đem máu đào hòa nước sông nhà
Hồn linh thiêng sống trong muôn ngàn sóng
Những khi nao chiều vắng trầm đưa êm tiếng ca
Thuyền ai lướt sóng trên dòng sâu
Êm đềm trôi về đến nơi đâu?
Có hay chăng ai trên dòng sông xanh
Tiếng ca thuở xưa như gợi tâm tình...
Ca khúc chậm buồn trên âm giai thứ, nhịp Boston ¾. Lời và nhạc u uẩn, tha thiết bi ai. Cũng trong ban nhi đồng ngày xưa, Mai Hương khi mới trên 10 tuổi thường hát bài này. Chắc chị rất thích “Ngày Xưa” vì trong những đĩa nhạc chị phát hành ở hải ngoại, người viết có nghe chị trình bày lại bài hát này...
Và sau hết phải kể đến “Trưng Nữ Vương” của Thẩm Oánh.
Ông thuộc lớp nhạc sĩ tiền phong của tân nhạc Việt Nam, với tác phẩm rất phong phú về nhạc thuật và lời từ cổ điển. Ðiểm đặc biệt khi ông dùng âm giai ngũ cung, nét nhạc lại mang âm hưởng nhạc Trung Hoa. Những bài như “Ngàn Cánh Chim Về”, Nhớ Nhung”, “Xa Cách Muôn Trùng”, “Chim Gió Tha Phương”, “Tòa Miếu Cổ”... đều nghe như giai điệu Trung Hoa. Và tuy “Trưng Nữ Vương” là bài hùng ca có nhịp quân hành mà vẫn nghe ra âm điệu Á Ðông.
Nhạc sĩ Thẩm Oánh viết tác phẩm ngợi ca hai vị nữ anh hùng trên âm giai Trưởng, với những chuỗi nốt móc có chấm và nốt móc hai để nhấn mạnh nhịp điệu hùng dũng của bài hát. Lời ca uy nghi và đầy mầu sắc:
Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca
Thu về giang san cho lừng uy gái Nam
Bầu trời Á sáng ngời ánh quang...
Nợ nước phó tay người nhi nữ
Tình riêng cứu nguy cho toàn dân
Một lòng trung trinh son sắt bền
Hát giang sóng rền...
Trưng Nữ Vương, dầy đức cao ơn
Xin ứng linh ban phúc cho giang sơn hòa bình
Trưng Nữ Vương, nước non còn đó
Giống Lạc Hồng quyết kiên lòng bồi đền non sông...
Như hầu hết tác phẩm của Thẩm Oánh, bài “Trưng Nữ Vương” khá dài vì còn một chuyển đoạn rồi mới trở về điệp khúc. Bài này là hiệu đoàn ca của trường trung học Trưng Vương trước năm 1975. Bên trường Gia Long thì dùng bài “Cô Gái Việt” của Hùng Lân.
Thời nay, có lẽ nhiều người trong nước không còn biết gì về ba ca khúc này, huống hồ là người sống trên mạn ngược ở gần biên giới Quảng Tây.
Nhưng thật ra, họ không được học hay được kể lại về trận đánh của Hai Bà với Mã Viện tại hồ Lãng Bạc nên hiển nhiên là không hề rung động nếu có nghe thấy Hồ Lãng Bạc của Xuân Tùng. Trong hoàn cảnh đó, làm sao họ biết rằng sau khi Hai Bà tử trận, chư tướng bị bắt qua bên Tầu vẫn còn nhớ tới công ơn và lập miếu thờ tại tỉnh Hồ Nam! Nếu lên tận đó mà múa gươm đánh trống thì đẹp đến chừng nào!
Dĩ nhiên là với tình trạng ngày nay của đất nước thì đấy là việc cấm kỵ! Vì vậy, và cũng để nhớ tới hai vị anh hùng dân tộc, người viết bèn hỏi thêm các bậc trưởng thượng trong nhà để kết thúc bài tạp ghi với vài chi tiết mà hải ngoại này không thể quên:
Tại địa giới Hành Sơn của Hồ Nam có núi “Phân Mao” với nét lạ là cỏ mao rẽ hẳn ra hai hướng Nam-Bắc. Thời xưa, đây là địa giới cực Nam của Trung Nguyên. Chẳng biết đấy có là biên vực phía Bắc của nước Văn Lang không, nhưng bỗng dưng mình nhớ Bình Ngô Ðại Cáo và lời Nguyễn Trãi: “Sơn hà cương vực đã chia; Phong tục Bắc Nam cũng khác!”
Ta cũng biết là phía Nam Ðộng Ðình Hồ của khu vực này có đền thờ bà Trưng Trắc. Biết như vậy vì trên đường đi sứ vào thời Tây Sơn, Ngô Thời Nhiệm của nước Nam có qua đó, kể lại chuyện phân mao và làm bài thơ về núi Phân Mao với lời nhắc tới lưỡi gươm của Trưng Trắc. Ðó là bài “Phân Mao Lĩnh”...
Ai sẽ thắp nhang tại đền thờ Trưng Trắc bây giờ? Mà liệu ngôi đền ấy còn không khi mà mấy tấm bia tưởng niệm thuyền nhân tại Ðông Nam Á còn bị Hà Nội cho người đi phá!
Người viết tự dưng nhớ lại các ca khúc về Hai Bà Trưng vì đọc báo thấy có người mình qua tận tỉnh Quảng Tây bên kia biên giới để lên đồng hay múa hát gì đó trước miếu thờ Phục Ba Tướng Quân Mã Viện!
Trong kho tàng tân nhạc của chúng ta, thời kỳ phôi thai lại có nhiều tác phẩm viết về lịch sử nhất. Vì thời đó các tác giả đều ở lứa tuổi thanh niên nức lòng ái quốc, hay là vì khi đó nước ta đã chớm thấy hy vọng độc lập?
Riêng về Hai Bà Trưng, chúng ta có ba ca khúc tiêu biểu ca tụng công đức hai bà. Ðó là “Hồ Lãng Bạc” của Xuân Tùng, “Ngày Xưa” của Hoàng Phú và “ Trưng Nữ Vương” của Thẩm Oánh. Xin hãy lần lượt nhớ lại từng bài, trước tiên là “Hồ Lãng Bạc.”
Hình như nhạc sĩ Xuân Tùng chỉ sáng tác có mỗi bài này, hoặc nếu ông có các tác phẩm khác thì chúng không được phổ biến chăng?.. Nhưng chỉ riêng với “Hồ Lãng Bạc” ông đáng được biết đến vì lời từ và về nhạc thuật. Bài hát viết trên nhịp luân vũ ¾ âm giai Trưởng trong sáng, rất thích hợp với lời tả cảnh, dạt dào sóng nước:
Thuyền bơi dẻo lướt trên hồ đầy nước trong
Bọt tung theo sóng kêu dạt dào
Buồm căng nặng gió mang thuyền đi lướt nhanh
Én nhào trên nước lóng lánh
Bờ xa bát ngát ven trời mây sóng đưa
Thành cây xa tắp trong mây mờ
Hồ Tây đây chốn tranh hùng Trưng Nữ Vương
Khiến người như thấy bâng khuâng
Ðoạn đầu diễn tả cảnh sông nước và nỗi ngậm ngùi. Sau đó, đến chuyển đoạn thì nhạc và lời cùng thay đổi. Mỗi nhịp đều được nhấn mạnh (temps fort) và dứt khoát như lòng quật cường trong trận mạc:
Thề quyết chiến, liều xông lên, thét hùng oai nữ nhi
Gào gió thét, ầm sóng vỗ, thế cùng không chút sờn
Hồ vẫn đấy, người xưa đâu, sóng hùng ghi nữ anh
Buồm quyến gió, thuyền rẽ sóng, phía trời mây nước thanh
......
Bài ca trong sáng và cảm động này, ngày xưa, Quỳnh Giao hay song ca với người anh Bửu Minh (biệt hiệu là “Anh Minh”) khi mới lên bảy trong ban thiếu sinh nhi đồng. Hát với tên thật là Ðoan Trang - vì nít quá chưa có biệt hiệu hay nghệ danh gì!
Nhạc phẩm thứ hai viết về Hai Bà là “Ngày Xưa” của Hoàng Phú, là tên của nhạc sĩ Tô Vũ. Thời kỳ mới sáng tác các bài hát ngợi ca lịch sử, Hoàng Phú cùng anh là Hoàng Quý đã dùng nhạc khơi lên bầu nhiệt huyết trong sáng hồn hậu của thanh niên. Từ “Tiếng Chim Gọi Ðàn” đến “Nước Non Lam Sơn,” từ “Bóng Cờ Lau” đến “ Ngày Xưa,” là cả một tấm lòng tha thiết với quê hương và tổ quốc. Hãy nghe lại lời Hoàng Phú kể chuyện:
Dòng sông Hát nước xanh mờ sâu
Êm đềm trôi về tới nơi đâu?
Sóng đưa lăn tăn con thuyền ai xuôi
Theo gió khơi tiếng ca âm thầm trầm rơi
Ngày xưa kia nơi đây đã từng vanh hình bóng
Ðôi quần thoa đem máu đào hòa nước sông nhà
Hồn linh thiêng sống trong muôn ngàn sóng
Những khi nao chiều vắng trầm đưa êm tiếng ca
Thuyền ai lướt sóng trên dòng sâu
Êm đềm trôi về đến nơi đâu?
Có hay chăng ai trên dòng sông xanh
Tiếng ca thuở xưa như gợi tâm tình...
Ca khúc chậm buồn trên âm giai thứ, nhịp Boston ¾. Lời và nhạc u uẩn, tha thiết bi ai. Cũng trong ban nhi đồng ngày xưa, Mai Hương khi mới trên 10 tuổi thường hát bài này. Chắc chị rất thích “Ngày Xưa” vì trong những đĩa nhạc chị phát hành ở hải ngoại, người viết có nghe chị trình bày lại bài hát này...
Và sau hết phải kể đến “Trưng Nữ Vương” của Thẩm Oánh.
Ông thuộc lớp nhạc sĩ tiền phong của tân nhạc Việt Nam, với tác phẩm rất phong phú về nhạc thuật và lời từ cổ điển. Ðiểm đặc biệt khi ông dùng âm giai ngũ cung, nét nhạc lại mang âm hưởng nhạc Trung Hoa. Những bài như “Ngàn Cánh Chim Về”, Nhớ Nhung”, “Xa Cách Muôn Trùng”, “Chim Gió Tha Phương”, “Tòa Miếu Cổ”... đều nghe như giai điệu Trung Hoa. Và tuy “Trưng Nữ Vương” là bài hùng ca có nhịp quân hành mà vẫn nghe ra âm điệu Á Ðông.
Nhạc sĩ Thẩm Oánh viết tác phẩm ngợi ca hai vị nữ anh hùng trên âm giai Trưởng, với những chuỗi nốt móc có chấm và nốt móc hai để nhấn mạnh nhịp điệu hùng dũng của bài hát. Lời ca uy nghi và đầy mầu sắc:
Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca
Thu về giang san cho lừng uy gái Nam
Bầu trời Á sáng ngời ánh quang...
Nợ nước phó tay người nhi nữ
Tình riêng cứu nguy cho toàn dân
Một lòng trung trinh son sắt bền
Hát giang sóng rền...
Trưng Nữ Vương, dầy đức cao ơn
Xin ứng linh ban phúc cho giang sơn hòa bình
Trưng Nữ Vương, nước non còn đó
Giống Lạc Hồng quyết kiên lòng bồi đền non sông...
Như hầu hết tác phẩm của Thẩm Oánh, bài “Trưng Nữ Vương” khá dài vì còn một chuyển đoạn rồi mới trở về điệp khúc. Bài này là hiệu đoàn ca của trường trung học Trưng Vương trước năm 1975. Bên trường Gia Long thì dùng bài “Cô Gái Việt” của Hùng Lân.
Thời nay, có lẽ nhiều người trong nước không còn biết gì về ba ca khúc này, huống hồ là người sống trên mạn ngược ở gần biên giới Quảng Tây.
Nhưng thật ra, họ không được học hay được kể lại về trận đánh của Hai Bà với Mã Viện tại hồ Lãng Bạc nên hiển nhiên là không hề rung động nếu có nghe thấy Hồ Lãng Bạc của Xuân Tùng. Trong hoàn cảnh đó, làm sao họ biết rằng sau khi Hai Bà tử trận, chư tướng bị bắt qua bên Tầu vẫn còn nhớ tới công ơn và lập miếu thờ tại tỉnh Hồ Nam! Nếu lên tận đó mà múa gươm đánh trống thì đẹp đến chừng nào!
Dĩ nhiên là với tình trạng ngày nay của đất nước thì đấy là việc cấm kỵ! Vì vậy, và cũng để nhớ tới hai vị anh hùng dân tộc, người viết bèn hỏi thêm các bậc trưởng thượng trong nhà để kết thúc bài tạp ghi với vài chi tiết mà hải ngoại này không thể quên:
Tại địa giới Hành Sơn của Hồ Nam có núi “Phân Mao” với nét lạ là cỏ mao rẽ hẳn ra hai hướng Nam-Bắc. Thời xưa, đây là địa giới cực Nam của Trung Nguyên. Chẳng biết đấy có là biên vực phía Bắc của nước Văn Lang không, nhưng bỗng dưng mình nhớ Bình Ngô Ðại Cáo và lời Nguyễn Trãi: “Sơn hà cương vực đã chia; Phong tục Bắc Nam cũng khác!”
Ta cũng biết là phía Nam Ðộng Ðình Hồ của khu vực này có đền thờ bà Trưng Trắc. Biết như vậy vì trên đường đi sứ vào thời Tây Sơn, Ngô Thời Nhiệm của nước Nam có qua đó, kể lại chuyện phân mao và làm bài thơ về núi Phân Mao với lời nhắc tới lưỡi gươm của Trưng Trắc. Ðó là bài “Phân Mao Lĩnh”...
Ai sẽ thắp nhang tại đền thờ Trưng Trắc bây giờ? Mà liệu ngôi đền ấy còn không khi mà mấy tấm bia tưởng niệm thuyền nhân tại Ðông Nam Á còn bị Hà Nội cho người đi phá!
Mùa Trăng (Quỳnh Giao)
Có lẽ câu chuyện hôm nay phải bắt đầu bằng hai chữ “ngày xưa” thì mới đúng cách.
Người viết nghĩ như vậy vì liên tưởng tới những ngày thơ ấu của mình. Việt Nam bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và trẻ em cũng không ra khỏi ảnh hưởng đó nên rằm Trung Thu là ngày hội của tuổi thơ, chỉ thua sự tưng bừng của ba ngày Tết mà thôi.
Từ bé, mình đã nhìn ánh trăng như một thiên đàng treo trên cao. Qua bao truyện cổ tích, em bé Việt gọi mặt trăng bằng nhiều danh từ mỹ miều, nào là cung Quế, cung Quảng, chị Hằng hoặc Hằng Nga, mà không rõ xuất xứ từ đâu. Rồi thì các em cũng loáng thoáng biết là trên cung Quảng có chú Cuội già, có khi lại là thằng Cuội, vì mải chơi mà bị đầy lên đó! Các em đã nghe ông bà cha mẹ hoặc thầy cô kể như vậy. Và nghe nhiều hơn cả là qua... những bài hát trên các làn sóng phát thanh mỗi dịp Trung Thu.
Ðến mùa Trung Thu, ngoài cái thú được ăn bánh dẻo, bánh nướng đến sún cả răng, trẻ con thích nhất là đêm xuống, cả nhà đã ăn uống xong xuôi, được cha mẹ cho đi hóng mát bằng xe hơi một vòng ngoài phố. Có khi cha mẹ hứng chí cho đi xuống tận Chợ Lớn để xem đèn. Một rừng đèn đầy mầu sắc và hình thù khác nhau cứ làm cho con trẻ sướng mê. Nào là đèn bươm bướm, đèn con cá, đèn ông sao, đèn tầu thủy, đèn máy bay... Nhưng con bé thì mê nhất đèn xếp đủ mầu, và ngây mắt nhìn đèn kéo quân, tưởng tượng cảnh tiên giới hiện ra trước mắt mình nơi trần thề.
Trong khi đó thì các bài hát về Trung Thu vang lên từ góc phố, từ lối xóm vọng lại. Yêu nhất là bài “Thằng Cuội” của nhạc sĩ Lê Thương. Nhất là thằng Cuội đó lại “ôm một mối mơ.” Vừa ôm cái gối ôm, vừa nghĩ mình là thằng cuội ở trên cung trăng:
Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ....
Cuội ơi, ta nói cho Cuội nghe
Ở trên cung cấm làm chi?
Các em thích cười, muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang
Mười lăm tháng Tám Trời cho
Một ông trăng sáng thật to...
Cùng một chủ đề, Phạm Duy viết bài “Chú Cuội” với nội dung khác hẳn, tình tứ mà ỡm ờ.
Chú Cuội của Phạm Duy là người lớn, không phải thằng Cuội của trẻ con. Chú Cuội này yêu cô Hằng năm xưa xuống trần, rồi vì tương tư cô nên để trâu ăn lúa mà quên đường về. Cô Hằng này lại không phải là nàng Hằng Nga trên cung Quảng Hàn của chúng ta. Cô Hằng này là nàng Thái Hằng mà ông đang tán tỉnh ở dương thế.
Ta yêu cô Hằng năm xưa xuống trần
Nàng ơi, nàng về dương gian tìm đường nuôi nấng
Cung đàn Hằng Nga.
Xin đôi cánh vàng, mượn chiếu mây non
Cuội ơi, Cuội theo cánh gió
Cuội lên cung vắng, Cuội không về làng...
Tụi nhóc tì chưa biết yêu là gì, cho nên không thích chú Cuội, mà chỉ thích thằng Cuội!
Lúc hát ban nhi đồng của bác Kiều Hạnh, Quỳnh Giao này còn giữ tên thật và có lần được hát bài “Hình Ảnh Một Ðêm Trăng” của Văn Phụng. Nói theo ngôn ngữ ngày xưa là con bé liền “mết” bài hát này liền. Văn Phụng viết ca khúc trên nhịp Boston dìu dặt, cung Fa trưởng trong sáng, bâng khuâng man mác. Trẻ con tưởng được chắp cánh bay:
Khi ấu thơ, ngồi trông bóng trăng, nhìn theo áng mây đưa
Nghe má ba, kể trong ánh trăng, Cuội đang sống say sưa
Rồi thôn xóm hừng lên tiếng reo, hòa theo khúc ca ngân
Tiếng ngây thơ, bầy em múa ca mời trăng thu xuống trần
Lưng trời mây trắng trôi lững lờ
Mơ hồ tiếng sáo ru hồn thơ
Ngắm trăng thanh và nghe tiếng tiêu đưa câu mơ màng
Lòng tôi mong ước tiên ban cặp cánh bay lên vừng trăng...
Nhưng rồi lại có năm 75 tan tác.
Rồi phải sang Hoa Kỳ tị nạn.
Khi ấy, gia đình mất vầng trăng cũ và đến tiểu bang Virginia tạm trú nhà người anh cả đã du học từ năm 1950. Lúc đó, anh Bửu Dương đã xong bằng tiến sĩ từ Harvard và làm giáo sư dạy Pháp ngữ và Văn Hóa Trung Hoa cho Ðại Học Bridgewater, cùng tên thị trấn ở miền Ðông, cách thủ đô Hoa Thịnh Ðốn hai giờ lái xe. Cả thị trấn hiền hòa này chỉ có độ 2,000 dân, phần lớn là sinh viên và gia đình của giáo sư dạy trong trường. Bridgewater có vỏn vẹn một trường đại học, một nhà thờ, hai siêu thị Mỹ bằng chợ Anh Minh gần phở Nguyễn Huệ của ta, và một rạp ciné nhỏ xíu tựa cái hộp quẹt.
Lúc mới tới, con gái của người viết mới lên năm, vừa đủ tuổi vào kindergarten. Cả vùng chỉ có anh Bửu Dương là người Á Ðông duy nhất. Nay thêm một gia đình tỵ nạn là có thêm ba người Á Châu. Mỗi khi ra đường, thiên hạ trố mắt nhìn. Người Mỹ có lòng bác ái thiết thực, họ tấp nập đem cho nào khăn tắm nào nồi niêu. Trong nhà có đến mấy chục bộ khăn và mấy bộ comforter cho giường ngủ. Ðôi khi họ đến nhà đón hai mẹ con đi ăn lunch, những món ăn vẫn chưa thể quen, như hot dog hay tuna salad.
Cả hai mẹ con chỉ mong được về ăn cơm nguội với nước mắm!
Tới Mỹ vào tháng 6, 1975, đến tháng 9 hoàn hồn nhìn tấm lịch là lại lẩm bẩm “bây giờ bên ấy đang là rằm Trung Thu.” Con bé con bỗng níu áo hỏi mẹ: “Mẹ ơi, thế cái ông Việt Nam ở trên moon, ông ấy còn đó không?” Phải vài giây sau mới kịp hiểu là cháu nó nhắc đến thằng Cuội! Và muốn khóc òa.
Nó ra đi mà hồn còn đầy ắp hình ảnh mùa trăng cũ. Cứ tưởng là người lớn mới hoài niệm quá khứ, nào ngờ con trẻ cũng như mình, vầng trăng năm xưa vẫn rạng rỡ trong trí nhớ.
Bây giờ, nhìn trăng mới mà nghĩ đến trăng xưa, ngày cũ, mình mới thông cảm với Nguyễn Du. “Vầng nguyệt trời Nam còn một mảnh, đêm về soi thấu dạ đôi nơi...” Ông viết bài này để từ biệt một người bạn trong thời ly loạn. Hai người đôi nơi cùng nhìn lên vầng nguyệt mà nhớ nhau.
Phải chi vẫn còn một lũ trẻ rồng rắn rước đèn, cho mình vui thêm được một chút...
Người viết nghĩ như vậy vì liên tưởng tới những ngày thơ ấu của mình. Việt Nam bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và trẻ em cũng không ra khỏi ảnh hưởng đó nên rằm Trung Thu là ngày hội của tuổi thơ, chỉ thua sự tưng bừng của ba ngày Tết mà thôi.
Từ bé, mình đã nhìn ánh trăng như một thiên đàng treo trên cao. Qua bao truyện cổ tích, em bé Việt gọi mặt trăng bằng nhiều danh từ mỹ miều, nào là cung Quế, cung Quảng, chị Hằng hoặc Hằng Nga, mà không rõ xuất xứ từ đâu. Rồi thì các em cũng loáng thoáng biết là trên cung Quảng có chú Cuội già, có khi lại là thằng Cuội, vì mải chơi mà bị đầy lên đó! Các em đã nghe ông bà cha mẹ hoặc thầy cô kể như vậy. Và nghe nhiều hơn cả là qua... những bài hát trên các làn sóng phát thanh mỗi dịp Trung Thu.
Ðến mùa Trung Thu, ngoài cái thú được ăn bánh dẻo, bánh nướng đến sún cả răng, trẻ con thích nhất là đêm xuống, cả nhà đã ăn uống xong xuôi, được cha mẹ cho đi hóng mát bằng xe hơi một vòng ngoài phố. Có khi cha mẹ hứng chí cho đi xuống tận Chợ Lớn để xem đèn. Một rừng đèn đầy mầu sắc và hình thù khác nhau cứ làm cho con trẻ sướng mê. Nào là đèn bươm bướm, đèn con cá, đèn ông sao, đèn tầu thủy, đèn máy bay... Nhưng con bé thì mê nhất đèn xếp đủ mầu, và ngây mắt nhìn đèn kéo quân, tưởng tượng cảnh tiên giới hiện ra trước mắt mình nơi trần thề.
Trong khi đó thì các bài hát về Trung Thu vang lên từ góc phố, từ lối xóm vọng lại. Yêu nhất là bài “Thằng Cuội” của nhạc sĩ Lê Thương. Nhất là thằng Cuội đó lại “ôm một mối mơ.” Vừa ôm cái gối ôm, vừa nghĩ mình là thằng cuội ở trên cung trăng:
Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ....
Cuội ơi, ta nói cho Cuội nghe
Ở trên cung cấm làm chi?
Các em thích cười, muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang
Mười lăm tháng Tám Trời cho
Một ông trăng sáng thật to...
Cùng một chủ đề, Phạm Duy viết bài “Chú Cuội” với nội dung khác hẳn, tình tứ mà ỡm ờ.
Chú Cuội của Phạm Duy là người lớn, không phải thằng Cuội của trẻ con. Chú Cuội này yêu cô Hằng năm xưa xuống trần, rồi vì tương tư cô nên để trâu ăn lúa mà quên đường về. Cô Hằng này lại không phải là nàng Hằng Nga trên cung Quảng Hàn của chúng ta. Cô Hằng này là nàng Thái Hằng mà ông đang tán tỉnh ở dương thế.
Ta yêu cô Hằng năm xưa xuống trần
Nàng ơi, nàng về dương gian tìm đường nuôi nấng
Cung đàn Hằng Nga.
Xin đôi cánh vàng, mượn chiếu mây non
Cuội ơi, Cuội theo cánh gió
Cuội lên cung vắng, Cuội không về làng...
Tụi nhóc tì chưa biết yêu là gì, cho nên không thích chú Cuội, mà chỉ thích thằng Cuội!
Lúc hát ban nhi đồng của bác Kiều Hạnh, Quỳnh Giao này còn giữ tên thật và có lần được hát bài “Hình Ảnh Một Ðêm Trăng” của Văn Phụng. Nói theo ngôn ngữ ngày xưa là con bé liền “mết” bài hát này liền. Văn Phụng viết ca khúc trên nhịp Boston dìu dặt, cung Fa trưởng trong sáng, bâng khuâng man mác. Trẻ con tưởng được chắp cánh bay:
Khi ấu thơ, ngồi trông bóng trăng, nhìn theo áng mây đưa
Nghe má ba, kể trong ánh trăng, Cuội đang sống say sưa
Rồi thôn xóm hừng lên tiếng reo, hòa theo khúc ca ngân
Tiếng ngây thơ, bầy em múa ca mời trăng thu xuống trần
Lưng trời mây trắng trôi lững lờ
Mơ hồ tiếng sáo ru hồn thơ
Ngắm trăng thanh và nghe tiếng tiêu đưa câu mơ màng
Lòng tôi mong ước tiên ban cặp cánh bay lên vừng trăng...
Nhưng rồi lại có năm 75 tan tác.
Rồi phải sang Hoa Kỳ tị nạn.
Khi ấy, gia đình mất vầng trăng cũ và đến tiểu bang Virginia tạm trú nhà người anh cả đã du học từ năm 1950. Lúc đó, anh Bửu Dương đã xong bằng tiến sĩ từ Harvard và làm giáo sư dạy Pháp ngữ và Văn Hóa Trung Hoa cho Ðại Học Bridgewater, cùng tên thị trấn ở miền Ðông, cách thủ đô Hoa Thịnh Ðốn hai giờ lái xe. Cả thị trấn hiền hòa này chỉ có độ 2,000 dân, phần lớn là sinh viên và gia đình của giáo sư dạy trong trường. Bridgewater có vỏn vẹn một trường đại học, một nhà thờ, hai siêu thị Mỹ bằng chợ Anh Minh gần phở Nguyễn Huệ của ta, và một rạp ciné nhỏ xíu tựa cái hộp quẹt.
Lúc mới tới, con gái của người viết mới lên năm, vừa đủ tuổi vào kindergarten. Cả vùng chỉ có anh Bửu Dương là người Á Ðông duy nhất. Nay thêm một gia đình tỵ nạn là có thêm ba người Á Châu. Mỗi khi ra đường, thiên hạ trố mắt nhìn. Người Mỹ có lòng bác ái thiết thực, họ tấp nập đem cho nào khăn tắm nào nồi niêu. Trong nhà có đến mấy chục bộ khăn và mấy bộ comforter cho giường ngủ. Ðôi khi họ đến nhà đón hai mẹ con đi ăn lunch, những món ăn vẫn chưa thể quen, như hot dog hay tuna salad.
Cả hai mẹ con chỉ mong được về ăn cơm nguội với nước mắm!
Tới Mỹ vào tháng 6, 1975, đến tháng 9 hoàn hồn nhìn tấm lịch là lại lẩm bẩm “bây giờ bên ấy đang là rằm Trung Thu.” Con bé con bỗng níu áo hỏi mẹ: “Mẹ ơi, thế cái ông Việt Nam ở trên moon, ông ấy còn đó không?” Phải vài giây sau mới kịp hiểu là cháu nó nhắc đến thằng Cuội! Và muốn khóc òa.
Nó ra đi mà hồn còn đầy ắp hình ảnh mùa trăng cũ. Cứ tưởng là người lớn mới hoài niệm quá khứ, nào ngờ con trẻ cũng như mình, vầng trăng năm xưa vẫn rạng rỡ trong trí nhớ.
Bây giờ, nhìn trăng mới mà nghĩ đến trăng xưa, ngày cũ, mình mới thông cảm với Nguyễn Du. “Vầng nguyệt trời Nam còn một mảnh, đêm về soi thấu dạ đôi nơi...” Ông viết bài này để từ biệt một người bạn trong thời ly loạn. Hai người đôi nơi cùng nhìn lên vầng nguyệt mà nhớ nhau.
Phải chi vẫn còn một lũ trẻ rồng rắn rước đèn, cho mình vui thêm được một chút...
Tạ Ơn Đời
Quỳnh Giao
Jacques Prévert là một nhà thơ mà cũng là một nhà điện ảnh nổi tiếng của Pháp. Ông sinh cùng thế kỷ 20 và tạ thế năm 1977.
Ða số người Việt chúng ta biết tới Prévert qua bài thơ Les Feuilles Mortes, được người bạn là nhạc sĩ Joseph Kosma gốc Hung Gia Lợi phổ vào nhạc, rồi được Juliette Gréco và Yves Montand trình bày để trở thành ca khúc cổ điển của mọi cặp tình nhân trên đời.
Thật ra, tình bạn giữa hai người còn bền chặt hơn giai điệu rơi rụng của chiếc lá úa.
Kosma là một nhạc sĩ đa điện, ông soạn nhạc opéra, ballets, nhạc thính phòng và nhất là viết nhạc phim. Vì là ông có huyết thống Do Thái, khi Pháp bị Ðức chiếm đóng thì Prévert đã chứa chấp và giúp bạn tiếp tục viết nhạc, nhưng dưới tên giả.
Ngoài Les Feuile Mortes, Kosma còn phổ nhiều bài thơ khác của Jacques Prévert, như Barbara, En Sortant de l'École, Et la Fête Continue, Dans ma Maison, v.v...
Trong số này, có lẽ ca khúc ngắn nhất, hát trong một phút chín giây, lại có âm hưởng dài nhất, đến vĩnh cửu. Ðó là bài Le Jardin.
Cả ngàn năm và cả ngàn năm
Cũng không đủ
Ðể nói
Khoảnh khắc vĩnh cửu
Khi anh hôn em
Và em hôn anh
Một buổi sáng dưới ánh Mùa Ðông
Tại vườn Montsouris ở Paris
Ở Paris
Trên trái đất
Ðịa cầu cũng là tinh cầu...
Nhiều nhà văn nhà thơ của chúng ta cũng cảm nhận như Prévert: tình yêu có thể biến khoảnh khắc thành vĩnh cửu.
Nhưng, trao nhau nụ hôn rồi, “người trong cuộc” cũng sẽ có ngày thấy:
Chiều tan trên đường tối
Có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối
Im chờ phút đầu thai...
Phạm Duy đã viết thế trong Ðường Chiều Lá Rụng. Lúc ấy, nếu người trong cuộc đã thành gò mối, ai là người cảm nhận ra sự vĩnh cửu? Chúng ta. Chúng ta tiếp tục cảm nhận ra sự vĩnh cửu nhờ tác phẩm của người nghệ sĩ để lại, mà có lẽ cảm nhận dễ nhất nếu đó là một tác phẩm âm nhạc.
Chúng ta có thể nghĩ đến điều ấy khi thiên hạ mừng Lễ Tạ Ơn và mình lẩm nhẩm lại Tạ Ơn Ðời của Phạm Duy.
Về tiểu tiết thì Phạm Duy viết bài này vào năm 1959, dường như sau một vụ tai tiếng đã gây đổ vỡ cho nhiều người thân. Ðấy là tiểu tiết không ai cần nhớ, trừ các nhà muốn viết... “nhạc sử”.
Nhưng đời sau không biết vẫn thấy bài này quá hay, với lời quá đẹp. Ông mở đầu như một bản tình ca buồn đầy những luyến tiếc. Thế rồi bỗng dứt ở một cảm nhận bất ngờ: “Ðời vắng xa như mẹ hiền...”
Ông nghĩ gì khi ấy mà từ những chuyện rong chơi lại thấy vắng xa như mẹ hiền?
Từ những nỗi niềm rất riêng tư, Phạm Duy mở ra không gian vĩnh cửu, để tuôn trào những tâm tư rất chung, của nhân thế.
Trong trăm Mùa Xuân héo
Tay hái biết bao niềm yêu
Dăm eo xèo nhân thế!
Chưa phai lòng say mê!
Với đôi ba lần gian dối!
Ðời vẫn ban cho ngọt bùi...
Ðấy là phần “tự thú” rất riêng tây của người nghệ sĩ. Thế rồi, ông chuyển đoạn, nhìn thấu chuyện tử sinh, từ khi còn là bào thai:
Ôi ơn đời chói vói!
Nhớ khi thân tròn ôm gối!
Ba trăm ngày trong gói
Ngóng trông ra đời góp mối chung vui...
Ôi ơn đời mãi mãi!
Thoát thai theo đời vun xới
Bao nhân tình thế giới
Lớn lên trong vườn ân ái muôn đời...
Như một kẻ lãng tử hư đốn trở về nhà, người nghệ sĩ bật khóc tạ ơn đời, tạ ơn từ lúc sinh thành, từ ba trăm ngày còn nằm trong gói cho đến khi lớn lên trong vườn ân ái muôn đời! Tình yêu có thể biến người đàn ông thành một đứa trẻ thơ, điều ấy ai cũng có thể biết. Nhưng trở thành một bào thai cuộn tròn trong lòng mẹ thì không có thiền cũng phải có tâm phân học mới giải thích được. Ca khúc quả là đẹp bất ngờ.
Thế rồi, gã tình si ấy - giờ đây không còn là chuyện của người nhạc sĩ nữa, ông nói cho mọi kẻ tình si của nhân thế vĩnh cửu - lại từ bào thai tìm đến chỗ chết.
Mang ơn đời chăn vỗ!
Dâng cho người yêu góa!
Dâng cây đàn bơ vơ!
Dâng biết bao ân tình xưa.
Mang ơn đời nâng đỡ!
Dâng nấm mồ thô sơ
Với dâng hương hồn thương nhớ
Còn vấn vương trong chiều tà...
Thơ Ðỗ Quý Toàn, “Mùa Xuân Yêu Em”, cũng đã có giây phút dọa nạt đó:
Có cành hoa đẹp
Anh hái cho em
Em không thèm nhận
Anh chết cho xem!...
Ở Phạm Duy, đây không phải là giây phút ăn vạ.
Ông thành thật nghĩ mình sẽ chết, sẽ dâng lời tạ ơn cho người yêu góa bụa... Khi ông viết, cách đây gần nửa thế kỷ, chúng ta không cần biết là ông viết cho ai, nhớ đến ai. Nhưng sau này, Thái Hằng đã ra đi trước ông và những người thân ở chung quanh đều chứng kiến sự suy sụp của ông từ đấy.
Tình yêu và cái chết là hai đề tài hay thắm quyện vào nhau. Thường thì người ta ưa dùng cái chết để bày tỏ cái tình. Nhưng, chết thì hết chuyện, còn đâu giây phút hạnh phúc sẽ thành vĩnh cửu nữa! Còn tác phẩm. Còn bài Tạ Ơn Ðời đã bay khỏi khung cảnh của tiểu tiết thời xưa để trở thành ca khúc khiến cho đời sau lưu luyến mãi. Cái “mãi” ấy là sự vĩnh cửu.
Về nhạc thuật, thông thường, cung thứ (mineur, minor) đều có âm hưởng u buồn ủ dột không tươi không sáng như âm giai trưởng (majeur, major). Các nhạc sĩ thuộc loại thiên tài của nhân loại đều có soạn nhạc trên cung thứ. Mozart thường dùng “ton” Sol khi viết những bài cung thứ. Beethoven hay viết trên “ton” Do những bài cung thứ u uẩn.
Riêng các nhạc sĩ Việt Nam, không hiểu sao lại ưa viết trên cung Ré thứ (D minor). Tạ Ơn Ðời của Phạm Duy không ra khỏi khuôn thước đó, với nhịp 4/4 thật chậm, thật buồn. Nói rằng hát như một bài “thánh ca” thì hơi quá và có thể xúc phạm những người sùng đạo, nhưng hát như một bài kinh cầu siêu - requiem - có lẽ không sai. Một lời nguyện cầu dâng lên đời như một nén nhang tạ ơn.
Tạ Ơn Ðời hợp với giọng nam hơn là nữ, vì cả lời lẫn tâm cảnh của bài hát. Và hai người đã trình bày rất thành công ca khúc này là hai ca sĩ của hai khung trời khác biệt, từ không gian đến thời gian, là Anh Ngọc của ngày trước và Trần Thái Hòa ngày nay. Khi Trần Thái Hòa trình bày Tạ Ơn Ðời mà người nghe vẫn thấy xúc động dù chẳng cần biết gì về tiểu tiết ra đời của ca khúc, chúng ta biết rằng khoảnh khắc ngày xưa đã có thể trở thành vĩnh cửu...
Jacques Prévert là một nhà thơ mà cũng là một nhà điện ảnh nổi tiếng của Pháp. Ông sinh cùng thế kỷ 20 và tạ thế năm 1977.
Ða số người Việt chúng ta biết tới Prévert qua bài thơ Les Feuilles Mortes, được người bạn là nhạc sĩ Joseph Kosma gốc Hung Gia Lợi phổ vào nhạc, rồi được Juliette Gréco và Yves Montand trình bày để trở thành ca khúc cổ điển của mọi cặp tình nhân trên đời.
Thật ra, tình bạn giữa hai người còn bền chặt hơn giai điệu rơi rụng của chiếc lá úa.
Kosma là một nhạc sĩ đa điện, ông soạn nhạc opéra, ballets, nhạc thính phòng và nhất là viết nhạc phim. Vì là ông có huyết thống Do Thái, khi Pháp bị Ðức chiếm đóng thì Prévert đã chứa chấp và giúp bạn tiếp tục viết nhạc, nhưng dưới tên giả.
Ngoài Les Feuile Mortes, Kosma còn phổ nhiều bài thơ khác của Jacques Prévert, như Barbara, En Sortant de l'École, Et la Fête Continue, Dans ma Maison, v.v...
Trong số này, có lẽ ca khúc ngắn nhất, hát trong một phút chín giây, lại có âm hưởng dài nhất, đến vĩnh cửu. Ðó là bài Le Jardin.
Cả ngàn năm và cả ngàn năm
Cũng không đủ
Ðể nói
Khoảnh khắc vĩnh cửu
Khi anh hôn em
Và em hôn anh
Một buổi sáng dưới ánh Mùa Ðông
Tại vườn Montsouris ở Paris
Ở Paris
Trên trái đất
Ðịa cầu cũng là tinh cầu...
Nhiều nhà văn nhà thơ của chúng ta cũng cảm nhận như Prévert: tình yêu có thể biến khoảnh khắc thành vĩnh cửu.
Nhưng, trao nhau nụ hôn rồi, “người trong cuộc” cũng sẽ có ngày thấy:
Chiều tan trên đường tối
Có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối
Im chờ phút đầu thai...
Phạm Duy đã viết thế trong Ðường Chiều Lá Rụng. Lúc ấy, nếu người trong cuộc đã thành gò mối, ai là người cảm nhận ra sự vĩnh cửu? Chúng ta. Chúng ta tiếp tục cảm nhận ra sự vĩnh cửu nhờ tác phẩm của người nghệ sĩ để lại, mà có lẽ cảm nhận dễ nhất nếu đó là một tác phẩm âm nhạc.
Chúng ta có thể nghĩ đến điều ấy khi thiên hạ mừng Lễ Tạ Ơn và mình lẩm nhẩm lại Tạ Ơn Ðời của Phạm Duy.
Về tiểu tiết thì Phạm Duy viết bài này vào năm 1959, dường như sau một vụ tai tiếng đã gây đổ vỡ cho nhiều người thân. Ðấy là tiểu tiết không ai cần nhớ, trừ các nhà muốn viết... “nhạc sử”.
Nhưng đời sau không biết vẫn thấy bài này quá hay, với lời quá đẹp. Ông mở đầu như một bản tình ca buồn đầy những luyến tiếc. Thế rồi bỗng dứt ở một cảm nhận bất ngờ: “Ðời vắng xa như mẹ hiền...”
Ông nghĩ gì khi ấy mà từ những chuyện rong chơi lại thấy vắng xa như mẹ hiền?
Từ những nỗi niềm rất riêng tư, Phạm Duy mở ra không gian vĩnh cửu, để tuôn trào những tâm tư rất chung, của nhân thế.
Trong trăm Mùa Xuân héo
Tay hái biết bao niềm yêu
Dăm eo xèo nhân thế!
Chưa phai lòng say mê!
Với đôi ba lần gian dối!
Ðời vẫn ban cho ngọt bùi...
Ðấy là phần “tự thú” rất riêng tây của người nghệ sĩ. Thế rồi, ông chuyển đoạn, nhìn thấu chuyện tử sinh, từ khi còn là bào thai:
Ôi ơn đời chói vói!
Nhớ khi thân tròn ôm gối!
Ba trăm ngày trong gói
Ngóng trông ra đời góp mối chung vui...
Ôi ơn đời mãi mãi!
Thoát thai theo đời vun xới
Bao nhân tình thế giới
Lớn lên trong vườn ân ái muôn đời...
Như một kẻ lãng tử hư đốn trở về nhà, người nghệ sĩ bật khóc tạ ơn đời, tạ ơn từ lúc sinh thành, từ ba trăm ngày còn nằm trong gói cho đến khi lớn lên trong vườn ân ái muôn đời! Tình yêu có thể biến người đàn ông thành một đứa trẻ thơ, điều ấy ai cũng có thể biết. Nhưng trở thành một bào thai cuộn tròn trong lòng mẹ thì không có thiền cũng phải có tâm phân học mới giải thích được. Ca khúc quả là đẹp bất ngờ.
Thế rồi, gã tình si ấy - giờ đây không còn là chuyện của người nhạc sĩ nữa, ông nói cho mọi kẻ tình si của nhân thế vĩnh cửu - lại từ bào thai tìm đến chỗ chết.
Mang ơn đời chăn vỗ!
Dâng cho người yêu góa!
Dâng cây đàn bơ vơ!
Dâng biết bao ân tình xưa.
Mang ơn đời nâng đỡ!
Dâng nấm mồ thô sơ
Với dâng hương hồn thương nhớ
Còn vấn vương trong chiều tà...
Thơ Ðỗ Quý Toàn, “Mùa Xuân Yêu Em”, cũng đã có giây phút dọa nạt đó:
Có cành hoa đẹp
Anh hái cho em
Em không thèm nhận
Anh chết cho xem!...
Ở Phạm Duy, đây không phải là giây phút ăn vạ.
Ông thành thật nghĩ mình sẽ chết, sẽ dâng lời tạ ơn cho người yêu góa bụa... Khi ông viết, cách đây gần nửa thế kỷ, chúng ta không cần biết là ông viết cho ai, nhớ đến ai. Nhưng sau này, Thái Hằng đã ra đi trước ông và những người thân ở chung quanh đều chứng kiến sự suy sụp của ông từ đấy.
Tình yêu và cái chết là hai đề tài hay thắm quyện vào nhau. Thường thì người ta ưa dùng cái chết để bày tỏ cái tình. Nhưng, chết thì hết chuyện, còn đâu giây phút hạnh phúc sẽ thành vĩnh cửu nữa! Còn tác phẩm. Còn bài Tạ Ơn Ðời đã bay khỏi khung cảnh của tiểu tiết thời xưa để trở thành ca khúc khiến cho đời sau lưu luyến mãi. Cái “mãi” ấy là sự vĩnh cửu.
Về nhạc thuật, thông thường, cung thứ (mineur, minor) đều có âm hưởng u buồn ủ dột không tươi không sáng như âm giai trưởng (majeur, major). Các nhạc sĩ thuộc loại thiên tài của nhân loại đều có soạn nhạc trên cung thứ. Mozart thường dùng “ton” Sol khi viết những bài cung thứ. Beethoven hay viết trên “ton” Do những bài cung thứ u uẩn.
Riêng các nhạc sĩ Việt Nam, không hiểu sao lại ưa viết trên cung Ré thứ (D minor). Tạ Ơn Ðời của Phạm Duy không ra khỏi khuôn thước đó, với nhịp 4/4 thật chậm, thật buồn. Nói rằng hát như một bài “thánh ca” thì hơi quá và có thể xúc phạm những người sùng đạo, nhưng hát như một bài kinh cầu siêu - requiem - có lẽ không sai. Một lời nguyện cầu dâng lên đời như một nén nhang tạ ơn.
Tạ Ơn Ðời hợp với giọng nam hơn là nữ, vì cả lời lẫn tâm cảnh của bài hát. Và hai người đã trình bày rất thành công ca khúc này là hai ca sĩ của hai khung trời khác biệt, từ không gian đến thời gian, là Anh Ngọc của ngày trước và Trần Thái Hòa ngày nay. Khi Trần Thái Hòa trình bày Tạ Ơn Ðời mà người nghe vẫn thấy xúc động dù chẳng cần biết gì về tiểu tiết ra đời của ca khúc, chúng ta biết rằng khoảnh khắc ngày xưa đã có thể trở thành vĩnh cửu...
Phạm Duy - Một Người và Mọi Người Cùng Trên Một Chiếc Thuyền
Lê Quý Khôi
Ngày 1 tháng 11, 2010
Văn hoá quyết định mọi thứ trong xã hội và tương lai của dân tộc. Đó là niềm tin của tôi. Văn hoá tôi muốn nói tới ở đây là “culture” của một đất nước chứ không phải chỉ là văn hoá nghệ thuật. Những đặc tính văn hoá có ảnh hưởng quyết định đến mọi việc từ lớn tới nhỏ, từ cấu trúc chính quyền và cách làm chính trị của con người, cho đến cách thức giáo dục và sự tổ chức của hệ thống giáo dục. Và chúng cũng quyết định cách làm việc, giao tiếp hàng ngày, cách ăn nói, đi đứng, sự sáng tạo, và trí thông minh của con người. Mặc dầu mọi thứ trong xã hội đều tác động qua lại lẫn nhau (ví dụ chính trị có thể quyết định hình dạng văn hoá trong một thời kỳ, hoặc trí thông minh của con người sẽ góp phần tạo nên màu sắc văn hoá của đất nước), nhưng nhìn chung văn hoá có tác dụng mang tính chất cốt lõi hơn, bao quát hơn, và kéo dài liên tục từ quá khứ đến hiện tại, cho tới tương lai xa.
Cũng như các nền văn hoá khác, văn hoá Việt Nam có cái hay và có cái dở. Nếu may mắn chúng ta sẽ có nhiều nét hay và ít nét dở, và nếu may mắn chúng ta sẽ bị tác động của nhiều yếu tố đẹp hơn yếu tố xấu. Những nét văn hoá không hay có thể ảnh hưởng tới con người một cách không công bằng lắm, và tôi muốn được bàn về tác động của những đặc tính đó đối với sự suy nghĩ và hành xử của chúng ta, đồng thời bàn về một nhân vật cũng bị tác động bởi những yếu tố văn hoá đó như mọi người; đó là nhạc sĩ Phạm Duy.
Đặc tính thứ nhất tôi muốn nói tới là cái nhìn của người Việt Nam về tính khiêm tốn. Cũng giống như nhiều nước châu Á khác, tính khiêm tốn được ca ngợi và khuyến khích nhiều tại Việt Nam. Đây là đặc tính tốt và các nền văn hoá khác cũng ca ngợi. Tuy nhiên, điều này được thấy rõ ràng hơn tại Á Đông. Người ta được khuyến khích không nên nói nhiều về mình quá và mọi người cần phải tỏ ra nhún nhường và… “nhỏ bé.” Đức tính này tốt vì nhiều lý do, ví dụ như nó làm con người cố gắng hơn; làm những người xung quanh cảm thấy dễ chịu, không có cảm giác người kia kiêu ngạo, hống hách; hoặc làm người đối diện cảm thấy được tôn trọng. Sự khuyến khích này được áp dụng với mọi người, từ những người bình thường cho tới những người có nhiều tài năng và thành công. Đôi khi đối với người tài năng, đòi hỏi sự khiêm tốn với họ còn khắt khe hơn nữa.
Tuy nhiên, thái độ của con người về sự khiêm nhường đó lại tạo ra những tác hại lớn và làm chính xã hội xấu đi. Thứ nhất là nó làm cho con người trở nên giả dối. Những hành động, thái độ, lời nói dường như khiêm tốn thực ra chỉ giả tạo mà thôi. Vì áp lực của niềm tin về sự khiêm nhường mà người ta phải làm ra vẻ khiêm tốn, nhưng thực sự họ có thể là những con người ngạo mạn. Vì muốn tạo một hình ảnh khiêm tốn, vì muốn hình ảnh của mình đẹp hơn hoặc việc làm của mình có giá trị hơn (vì được mang thêm cái mác khiêm tốn) nên họ cố làm ra vẻ nhún nhường. Thực tế có thể khác hẳn. Tất cả chỉ là đạo đức giả, bề ngoài. Những điều giả dối này rất dễ nhận ra và những con người đóng kịch vụng về đó có ở mọi nơi. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy nhiều người không nhận ra được sự khiêm tốn giả tạo đó. Dĩ nhiên tôi khuyến khích tính khiêm tốn, nhưng phải là khiêm tốn thực sự.
Sự đóng kịch này có nhiều tác hại. Thứ nhất là có những người không nhận ra được sự đóng kịch đó. Như vậy thì không sáng suốt và lại càng khuyến khích sự giả dối vì người đóng kịch thấy được sự thành công trong việc lừa dối người khác của mình. Thứ hai là có những người thấy được điều xấu xa nhưng vẫn chấp nhận, bỏ qua, không phê phán vì đã “quen” với việc đóng kịch rồi, và vì sự giả dối đó đi đúng vào cái “cách” khiêm tốn đã tồn tại cả ngàn năm. Kết quả là sự giả dối được tồn tại và kéo dài. Nguy hiểm hơn nữa là cái tâm lý chấp nhận sự giả dối được hình thành, chấp nhận, và sống mãi trong xã hội. Một kết quả nữa là những người không hành xử theo cách khiêm tốn (không thực) đó vì họ không thích giả dối có thể bị cho là kiêu ngạo và hứng chịu những chê trách, phê bình.
Tác hại thứ hai là niềm tin vào sự khiêm nhường theo cách Việt Nam sẽ tác động không hay đến những đặc tính tốt ví dụ như tính tự tin. Những nền văn hoá Tây Phương ca ngợi và kêu gọi tính khiêm tốn, nhưng họ cũng ca ngợi và khuyến khích tính tự tin rất nhiều. Ở Việt Nam hình như có khác đi một chút. Sự ca ngợi tính khiêm tốn quá nhiều, nhưng từ lâu tính tự tin không được khuyến khích đúng mức. Khi biểu lộ tính tự tin, người ta có thể nói về những thành quả hoặc tài năng của mình. Điều này đôi khi mới nhìn vào có vẻ trái ngược với tính khiêm tốn, và vì vậy có thể bị hiểu lầm tự kiêu và làm người khác khó chịu. Hơn nữa, với tâm lý đã được giáo dục và chuẩn bị sẵn về việc nhún nhường, nên những hành động hoặc lời nói chứa đựng nhiều tính tự tin và việc nói về bản thân có thể bị con người hiểu lầm dễ dàng hơn nữa, và bị cho là tự kiêu, tự tôn. Vì tâm lý đó mà có thể con người cũng luôn ở tư thế sẵn sàng bắt lỗi người khác kiêu ngạo.
Điều khó khăn ở đây là biểu lộ mình bao nhiêu, nói về mình ở mức độ nào là vừa đủ, là tự tin và không mang tiếng tự kiêu. Mỗi cá nhân có một cách đánh giá khác nhau. Không ai có quyền nói đánh giá của mình là tiêu chuẩn và người khác phải tin theo. Trong một xã hội mà từ lâu con người ca ngợi sự khiêm tốn quá nhiều nhưng không có thói quen khuyến khích tự tin thì giới hạn thế nào là tự tin chắc chắn sẽ thấp lắm. Mới nói về mình một chút là có thể đã mang tiếng tự kiêu rồi. Chỉ nói chút xíu nhưng mọi người đã chuẩn bị tinh thần để “bắt” coi người đó có không khiêm tốn không. Sống trong một xã hội như vậy thì con người ít có thói quen bày tỏ lòng tự tin, nói về mình và những thành quả của mình (nói một cách tích cực, chứ không phải khoe khoang). Sống trong một môi trường như vậy thì con người khó chấp nhận những điều mà họ nghĩ là đã qua giới hạn tự tin; khó chấp nhận những con người, hành động, lời nói tự tin mà họ không quen chứng kiến.
Một vấn đề nữa là việc ca ngợi khiêm tốn sẽ tạo nên những “nghi thức” khiêm tốn. Những điều mà tôi gọi là “nghi thức” này bao gồm cả lời nói lẫn hành động. Những “nghi thức” này không sao cả và cần thiết trong xã hội. Vấn đề nảy sinh khi những nghi thức đó trở nên máy móc, giả tạo, và bề ngoài. Thêm vào đó, tuỳ cá nhân, người ta còn thêm vào những kỹ thuật “khéo léo” riêng để có vẻ khiêm tốn hơn nữa. Tác hại xảy ra là vì được coi là “nghi thức” (hay “công thức”???) nên người theo công thức không bị chê giả tạo. Việc chê giả tạo cũng trở nên khó khăn hơn vì chê trách là đồng nghĩa với việc chống lại “nghi thức” đã tồn tại trong nền văn hoá từ trăm hoặc ngàn năm. Được dịp đó biết bao nhiêu người không khiêm tốn đã sử dụng những công cụ này để tỏ ra khiêm tốn. Có nhiều người nổi tiếng, giàu có, nhiều người có quyền lực và địa vị nói năng, cư xử có vẻ nhún nhường, khiêm tốn lắm, nhưng chỉ cần chú ý một chút thôi thì ta sẽ thấy sự tự tôn, tự kiêu tiềm ẩn trong những điều họ nói, họ làm. Bất cứ nền văn hoá nào cũng có những “nghi thức” như vậy. Điều quan trọng là cách sử dụng những nghi thức đó như thế nào, và cái “tâm” của người sử dụng nghi thức “trong” hay “đục” mà thôi.
Tôi xin đưa ra một so sánh nhỏ ở đây để nói lên cái nhìn của tôi về sự khiêm tốn. Ở Mỹ, người ta nói về bản thân nhiều và tự nhận mình thông minh, có khả năng, tài giỏi. Đó không phải tự kiêu mà là tự tin. Bên cạnh đó, họ rất chịu lắng nghe ý kiến người khác, dù trái ngược, dù là từ kẻ đối địch; họ tôn trọng và còn có thể nghe theo những ý kiến đó. Đó thực sự là khiêm tốn. Trong khi đó thì nhiều người Việt có thể có nhiều hành động, lời nói có vẻ rất khiêm tốn, nhún nhường, nhưng họ lại không chịu lắng nghe ai, không thèm lắng nghe người khác, hoặc những ý kiến trái ngược. Không những vậy, nhiều người còn không cho người khác có quyền hoặc cơ hội đưa ra ý kiến. Đối với tôi, đó là thái độ ngạo mạn, không khiêm tốn, mặc dù lời nói cử chỉ của họ thì rất nhún nhường.
Vậy thì nhạc sĩ Phạm Duy là người thế nào? Có kiêu ngạo như nhiều người nói không? Theo nhận xét của cá nhân tôi thì nhạc sĩ Phạm Duy là một người tự tin và nói thẳng. Ông không tự kiêu hay kiêu ngạo. Ông chỉ đơn thuần nói lên sự thật mà thôi. Ông nói về những tác phẩm của ông, những hiểu biết của ông, và những công lao, đóng góp của ông cho sự nghiệp âm nhạc Việt Nam. Ông có quyền nói lên những điều đó. Ông khen ngợi cái hay của người khác và ông cũng chê những điều ông không thấy hay. Ông cũng nói về bản tính của ông, về con người của ông một cách tự tin và tự nhiên. Ông nói lên những cái hay và ông cũng bàn về những cái không tốt của cá nhân. Ông trung thực với chính bản thân mình. Đối với một người nói như vậy và làm như vậy, tôi chỉ thấy lòng tự tin mà thôi. Khi nghe ông nói chuyện, đọc bài viết của ông, tiếp xúc với ông, tôi thấy ông là người tự tin.
Tôi tin rằng chúng ta sẽ thấy ông tự kiêu nếu chúng ta là nạn nhân của những nét văn hoá được đề cập tới ở trên, hoặc chúng ta bị ảnh hưởng bởi những tác động, lý do chủ quan khác. Tôi tin rằng nhạc sĩ Phạm Duy là một người tự tin, nói thẳng và dám nói thẳng. Tôi không thấy ông tự kiêu. Không những vậy, tôi còn cho rằng vì có tài năng, nên nếu ông có tự kiêu một chút cũng không sao (nếu ông muốn). Không có tài năng mà tự kiêu, lộ liễu hoặc ngấm ngầm, mới là điều đáng chê, đáng lo, và đáng buồn.
Nét văn hoá thứ hai liên quan đến ba vấn đề về “Communication.” Tôi sẽ thảo luận ba vấn đề này dưới đây. Thứ nhất là niềm tin của chúng ta về sự “khéo léo.” Ở Việt Nam ai cũng được dạy dỗ phải ăn nói khéo léo và cư xử khéo léo. Điều đó tốt thôi vì nó làm con người lịch sự hơn, thân thiện nhau hơn, và xã hội đẹp hơn. Vấn đề là khéo léo tới mức độ nào, và sự khéo léo cũng là một phương tiện để người ta giả tạo. Tôi đã gặp nhiều trường hợp khéo léo một cách lố bịch, giả tạo, và vụng về ở mọi nơi. Và như đã nói ở trên, con người có thể sử dụng sự khéo léo này để che đậy sự khiêm tốn không thật của họ. Điều này đã được bàn tới ở trên nên tôi không nói nữa.
Cách cư xử khác với khéo léo một chút là thẳng thắn, nói thẳng những gì mình suy nghĩ về bản thân, về người khác, và về sự việc. Nói chuyện kiểu này có thể đem đến những điều bất lợi vì nguy cơ làm người khác buồn, giận, hoặc thù. Tục ngữ Việt Nam có câu “Sự thật mất lòng” đã chứng minh điều đó. Tôi vẫn ủng hộ sự khéo léo, tế nhị. Tôi tin tưởng rằng chúng ta nếu cần nói thẳng, nói thật thì cũng phải biết cách nói, và không làm người khác đau lòng. Tuy nhiên, điều cần nói ở đây cũng vẫn là thẳng thắn tới mức độ nào là vượt quá giới hạn. Ai có quyền nói giới hạn của mình là đúng nhất? Có thể trong xã hội có một sự giới hạn vô hình nào đó đã được thiết lập và chấp nhận bởi đa số mọi người trong nhiều trăm, ngàn năm. Nhưng nếu một xã hội nhấn mạnh quá nhiều đến sự khéo léo thì giới hạn vô hình đó có lẽ cũng sẽ thấp lắm. Điều này bất lợi cho những người hơi khác với đa số quần chúng trong xã hội. Và những người tài giỏi thường khác với đa số quần chúng trong xã hội.
Phạm Duy là một người như vậy, và ông đã bị nhiều người không thích vì cách ăn nói của ông. Họ cho là ông ăn nói kiêu ngạo và đôi khi thô tục. Họ cho là ông “tuyên bố bậy bạ” và “phát ngôn bừa bãi.” Chúng có bậy bạ không? Có bừa bãi ở mức độ mọi người chê bai không? Cách ăn nói của ông có vấn đề không? Nhìn ở khía cạnh nào thì có vấn đề? Đối với người này thì không chấp nhận được, nhưng đối với người khác lại không có vấn đề gì cả. Vậy thì chúng ta có nên lên án và có quyền lên án ông không, hoặc lên án ở mức độ nào? Mỗi người có một cách ăn nói khác nhau, và mỗi người lại thích nghe một cách nói chuyện khác nhau và có một cách đánh giá khác nhau. Như thế nào là hay, là đúng? Đối với một người có nhiều tài năng, cống hiến, và khác nhiều người như Phạm Duy, chúng ta có nên có những đánh giá quá cực đoan hay không, và quá không công bằng hay không? Cá nhân chúng ta có quyền đánh giá một người như vậy không? (Tôi sẽ nói thêm về quyền đánh giá, đòi hỏi người khác trong văn hoá Việt Nam sau).
Câu trả lời của tôi cho những câu hỏi trên là tôi thấy cách nói chuyện của ông chẳng có gì là không hay cả. Những đánh giá về cách ăn nói của ông như nhiều người đã làm là thật sự quá mức và không công bằng. Tôi thấy những “tuyên bố” gọi là “bậy bạ”, những “phát ngôn” bị cho là “bừa bãi” chẳng có gì là nghiêm trọng (Xin được nhắc là ở đây chúng ta chưa cần tìm hiểu xem những điều đó có thực sự do ông nói hay không). Qua tiếp xúc với ông, tôi còn thấy thích cách nói chuyện của ông là đằng khác. Ông nói rõ ràng những điều ông muốn nói, không cần kiểu cách, “khéo léo” rởm. Thực sự là điều bất công khi chúng ta cũng thường xuyên có những tuyên bố “thô tục” và “bậy bạ” nhiều nơi, nhiều lúc nhưng chẳng bị phê phán. Hay tại chúng ta không tài giỏi, không nổi tiếng nên không “được” mọi người để ý để… chê? Hay vì ganh tỵ nên chúng ta chụp ngay những cơ hội để nói xấu ông?
Bây giờ chúng ta thử suy nghĩ về vấn đề thứ hai liên quan tới “Communication” sau đây xem sao. Chúng ta hãy tự hỏi biết đâu những điều được cho là của ông đó đã được kẻ khác tạo nên rồi nói là của ông. Điều này có thể lắm chứ, đặc biệt là đối với trường hợp Phạm Duy. Ở đây tôi muốn kêu gọi mọi người hãy cẩn thận suy nghĩ về một khả năng có thể xảy ra khi chúng ta nghe một tin tức nào đó về một người. Khi suy nghĩ kỹ lưỡng thì những đánh giá sẽ tăng thêm phần chính xác, công bằng, và chúng ta sẽ không bị lừa dối bởi những kẻ đặt chuyện.
Sự bịa đặt hoặc bóp méo thông tin này được sử dụng ở nhiều nền văn hoá và khá tràn lan trong xã hội Việt Nam. Đó là điều đáng buồn. Người ta có thể làm việc này bằng nhiều cách khác nhau từ bịa đặt hoàn toàn đến lấy một câu nói ra khỏi “context” rồi thêm vài từ, đổi vài chữ, thế là ý nghĩa bị thay đổi hoàn toàn, từ trắng ra đen. Tôi nhận thấy nhiều khi người ta tạo dựng nên những điều… sạo đến mức vô lý, vậy mà vẫn có người tin theo, không nghi ngờ, thắc mắc. Kỹ thuật bôi nhọ rẻ tiền này được sử dụng bởi cá nhân vì những lý do khác nhau, như ganh ghét hoặc chỉ đơn thuần vì không thích một người nào đó. Những tổ chức, hội đoàn cũng vậy, họ sử dụng để phá hoại danh tiếng người khác khi người đó đi ngược lại đường lối văn hoá, chính trị của họ. Người ta cũng có thể làm điều này với mục đích quấy rối sinh hoạt chính trị, văn hoá của những người hoặc tổ chức đối lập. Có người làm điều này chỉ vì họ mong muốn tạo nên một “scandal” để thừa dịp kiếm tiền, hoặc quảng cáo tên tuổi cá nhân và cơ sở kinh doanh (như các tờ báo, đài phát thanh, truyền hình chẳng hạn). Dĩ nhiên chính quyền cũng sử dụng chiến thuật này cho những mục đích riêng của họ.
Ở những nước văn minh, nơi có hệ thống luật pháp tương đối công bằng thì con người còn có cơ hội được bảo vệ, và những kẻ bịa đặt, bôi nhọ người khác một cách bất chính sẽ bị trừng phạt. Nhưng đối với phần lớn người Việt (trong nước cũng như ngoài nước) còn vướng nhiều đặc tính văn hoá chưa được văn minh lắm, với một cộng đồng tạm bợ như cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài, và với một chính quyền như trong nước nơi mà hệ thống pháp lý và thông tin truyền thông nằm trong tay chính quyền thì chúng ta không thể nói đến luật pháp nữa. Trong một nền văn hoá, chính trị, và xã hội như vậy, thì ai muốn nói gì thì nói, viết gì thì viết. Người ta chỉ việc thuê một “nhà báo” viết bài hoặc trả tiền cho một tờ báo để đăng bài về người khác là xong. Đối với chính quyền trong nước thì dĩ nhiên mọi việc càng dễ dàng hơn. Họ có thể viết mọi thứ và cấm người khác viết nếu họ muốn. Kết quả là thông tin trong xã hội không còn chính xác, trung thực. Có ai dám khẳng định tất cả những “tuyên bố bậy bạ” và “phát ngôn bừa bãi” (được cho là của Phạm Duy đó) là chính xác hoàn toàn và không phải là sản phẩm đã được nhào nặn của một kẻ nào khác không? Chúng ta hãy khoan nói rằng (theo một cách rất bình dân), “Không có lửa làm sao có khói.” Điều chúng ta cần nhận thấy ở đây là có những người có khả năng tạo nên cả “lửa” lẫn “khói” cho người khác.
Đặc điểm thứ ba liên quan tới “Communication” là thái độ của con người đối với tin đồn. Đây là đặc điểm rất nổi bật trong văn hoá Việt Nam, và là đặc tính rất xấu. Nó nói lên nhiều về trình độ nhận thức kém cỏi và tính tình dễ dãi, ẩu tả của người Việt. Tác hại của nó rất lớn vì những lý do sau. Trong xã hội Việt Nam có nhiều người thích đồn và thích nghe tin đồn. Tin đồn có thể bắt nguồn từ lời nói của một cá nhân, cho đến những nguồn “chính thức” hơn như báo chí, TV, radio, và website. Những người thích nghe, bị ảnh hưởng bởi tin đồn, và tiếp tay truyền bá tin đồn thì thuộc mọi giới, từ trẻ tới già, từ nam tới nữ, từ nông thôn tới thành phố, và thuộc đủ mọi trình độ. Đặc điểm tai hại thứ hai của tin đồn là chúng phát đi rất dễ dàng, rất nhanh, tới được nhiều người, và có thể sống rất lâu. Một đặc điểm nguy hiểm nữa là dường như mọi người rất thích tin tưởng vào tin đồn, đôi khi tin tưởng một cách tuyệt đối, không nghi ngờ, thắc mắc. Tai hại hơn là tin đồn thường xoay quanh những điều không hay, không đẹp. Con người thích tập trung vào những vấn đề không tốt rồi phổ biến chúng. Kỳ lạ là cứ mỗi lần tin đồn được truyền từ người này sang người khác thì mức độ không hay, không đẹp lại tăng lên một nấc, và một số tình tiết mới lại được thêm vào để câu chuyện trở nên ly kỳ hơn. Khi phổ biến tin đồn thì ai cũng nói với vẻ chắc nịch, khẳng định tính chính xác của sự việc, cứ như họ đã tận mắt chứng kiến sự việc vậy. Tin đồn với nhiều màu sắc tiếp tục được truyền đi và trở nên … “đúng.” Mặc dầu chẳng ai biết tin tức bắt nguồn từ đâu, từ ai, thực hư, phải trái thế nào, có chính xác hay không, có được kiểm chứng hay không nhưng mọi người lại cứ cho là … “đúng,” nhiều người cứ cho là mình … “biết.” Thế mới là điều kỳ lạ. Trong xã hội chúng ta, nhiều người làm cái công việc vô trách nhiệm này quá. Thật tai hại.
Trong khi tại những nước phát triển, con người chịu khó suy luận hơn, và chỉ tin tưởng vào những điều có chứng cứ xác thực và được kiểm định thì ở Việt Nam có vẻ đa số mọi người không suy nghĩ nhiều và sẵn sàng tin vào những điều họ nghe lại từ người khác. Kết quả là mặc dầu thực hư không biết thế nào, nhưng những tin tức đồn thổi chứa đựng nhiều điều không đẹp lại phổ biến rất nhanh, được mọi người tin tưởng, thêm thắt cho ly kỳ hơn, và tồn tại trong xã hội. Nhạc sĩ Phạm Duy chắc là không tránh được việc đồn thổi này, và nếu ông bị những tin đồn không đúng sự thật ảnh hưởng thì bất công quá. Tôi mong muốn mọi người hãy cẩn thận suy nghĩ kỹ hơn về vấn đề này khi nghe một tin tức nào đó về một con người. Đôi khi mọi việc chỉ đơn giản là tin đồn mà thôi.
Bây giờ tôi muốn nói một chút về những bài Tục Ca của Phạm Duy. Nhiều người dựa vào những bài này mà lên án ông là người “tục tĩu.” Có tục tĩu không khi biết rằng Phạm Duy muốn “đụng chạm” tới mọi vấn đề trong xã hội, và không sợ né trách bất cứ đề tài nào? Có tục không khi nhận thấy ông là người luôn tìm cách khám phá cái mới và mong muốn sáng tạo? Có tục không nếu nhìn từ góc độ đây là những điều hiện thực? Có tục không khi thấy rằng ông là người dám mô tả những điều đó và nói lên cảm giác, chứng kiến, kinh nghiệm thực sự của mình? Có tục không khi nghệ thuật, văn học dân gian Việt Nam cũng đề cập đến những điều tương tự? Có tục không khi chúng ta không dám và không có khả năng viết những bài hát như vậy mặc dù có thể trong thâm tâm cũng muốn bày tỏ “tính xấu” tự nhiên của con người qua âm nhạc hoặc một hình thức nghệ thuật nào khác? Có thô tục không khi thực sự chúng ta cũng có những hành động hoặc suy nghĩ gọi là “thô tục” đó trong lòng? Có tục không nếu nghĩ là ông đã làm cho đề tài âm nhạc thêm mới lạ, đa dạng, mặc dầu việc đa dạng này hơi kỳ lạ đối với một số người? Vấn đề là nếu chúng ta nhìn sự việc từ những khía cạnh khác nhau thì sẽ có những kết luận khác nhau.
Có thể chúng ta không thích những điều mô tả trong những bài hát đó. Vậy thì chúng ta không hát và không phổ biến chúng. Tại sao lại dựa vào đó để nói Phạm Duy thô tục? Còn những bài rất thánh thiện của ông thì sao? Những bài Tâm Ca, Đạo Ca, Thiền Ca, Bé Ca, những bài có nhiều tính triết lý thì sao? Những bài rất đẹp đẽ, trong sáng về quê hương, con người, tình yêu, và tâm hồn thì sao? Vì Tục Ca mà bao nhiêu điều đẹp đẽ khác bị phá huỷ hết hay sao? Nếu nhìn kỹ lại thì những nhạc phẩm của Phạm Duy đã mô tả tất cả những tâm tính, tình cảm tự nhiên của con người mà thôi. Ông đã diễn tả lại tâm tính, cảm xúc của ông và của chính chúng ta mà thôi.
Thay vì phân tích hoặc tranh luận những bài hát đó hoặc Phạm Duy có “tục” hay không, tôi muốn tập trung vào một khía cạnh khác bằng cách đặt một vài câu hỏi. Hãy tự hỏi chúng ta có “tục” trong lòng không? Hãy tự hỏi chúng ta có ham thích, ước mong, thèm thuồng được nhìn thân xác phụ nữ không? Hãy tự hỏi chúng ta có mong muốn, thèm thuồng có được nhiều “người tình” hay không? Hãy tự hỏi chúng ta có hãnh diện và có cơ hội thì sẽ khoe với người khác về tài năng chinh phục phụ nữ của mình hay không, có nhiều người yêu, “bồ nhí” hay không, nếu chúng ta có khả năng đó? Thực tế là Phạm Duy cũng giống như bao nhiêu người chúng ta mà thôi trong lãnh vực này. Phạm Duy mang tiếng “tục” chỉ vì ông có thể đưa “tục” vào âm nhạc và nhiều người biết đến. Chúng ta không mang tiếng “tục” tại vì chúng ta không biết viết nhạc hoặc không dám viết nhạc theo kiểu đó mặc dầu chúng ta cũng … “tục” y như ông. Đáng lý ra, chúng ta còn phải cám ơn và phục Phạm Duy nữa vì ông đã làm những đề tài này trở nên lãng mạn hơn, nhạc hơn, và thú vị hơn.
Đó là tôi đang nói về những bài Tục Ca, những bài bị một số người cho là “tục”. Còn những bài “Nhục Tình Ca” của ông thì khác. Chắc chắn những tác phẩm có nhiều nét tình yêu nhục thể hay thể xác này không khi nào “tục”. Đây là những tác phẩm ca ngợi và nói lên những cái đẹp thể xác con người cũng như những cảm xúc sâu thẳm, những rung động mạnh mẽ, những điều có thể đẹp đẽ, trong sáng, lãng mạn nhưng cũng có thể “trần tục” nhưng tất cả đều rất tự nhiên, và dĩ nhiên rất con người, xuất phát từ trong đáy lòng chân thực và con tim chân thực của con người. Đây là nghệ thuật và là đề tài đặc biệt, rất phổ biến trong nhiều lãnh vực nghệ thuật và văn chương thế giới. Những người phê phán những nhạc phẩm này của Phạm Duy chỉ thuộc vào một trong 4 nhóm sau:
1/ Những kẻ ganh tị, hẹp hòi, thù ghét và có những lý do chủ quan;
2/ Bồi bút, được ra lệnh hoặc thuê viết để chê bai;
3/ Những người có kiến thức giới hạn;
4/ Những người bệnh hoạn về tâm lý.
Tôi không coi “tư tưởng bảo thủ, truyền thống văn hoá” là một nhóm (nhóm thứ 5) ở đây vì tôi tin rằng người ta chỉ xử dụng “tư tưởng bảo thủ, truyền thống văn hoá” như một công cụ để che đậy, bào chữa cho 4 nhóm kia mà thôi.
Khéo léo tốt, nói thẳng cũng tốt, nhưng khéo léo và nói thẳng như thế nào, ở mức độ nào là điều quan trọng. Làm sao xác định thước đo, thế nào là tiêu chuẩn và công bằng cho đa số mọi người, cho chính bản thân mình, và cho những người có nhiều khác biệt với đa số quần chúng? Đối với nhạc sĩ Phạm Duy, tôi nghĩ rằng đánh giá tiêu cực của nhiều người về sự “khéo léo,” cách “ăn nói,” “phát ngôn,” cùng những lời “tuyên bố” của ông là một điều không công bằng. Không những vậy, những yếu tố không tốt tồn tại trong văn hoá Việt Nam như đặt điều hoặc tin đồn còn làm tình hình xấu hơn thêm vì chúng làm thông tin trở nên méo mó, không trung thực. Tất cả chúng ta và Phạm Duy đều có thể trở thành nạn nhân của những đặc tính văn hoá không hay này. Đó là điều chúng ta cần suy gẫm.
Nét văn hoá thứ ba, rất đặc trưng cho Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, là niềm tin vào “conformity.” Trong khuôn khổ thảo luận ở đây, “Conformity” là tuân thủ theo những quy định chung của xã hội, và được những quốc gia bị ảnh hưởng của Khổng Giáo rất coi trọng. Khác với những nước phương Tây, nơi mà con người được khuyến khích sống theo phong cách của cá nhân, khuyến khích sự tự do cá nhân, sáng tạo theo ý riêng, và sự đa dạng của xã hội; xã hội Việt Nam (và nhiều nước Á Đông khác) khuyến khích và đòi hỏi con người cần phải giống nhau, hoặc tương tự nhau. Xã hội có những điều lệ riêng mà tất cả mọi người phải tuân thủ; những hành động và ngay cả suy nghĩ của cá nhân con người không được đi quá xa so với những nguyên tắc, ước lệ chung của xã hội đó. Đôi khi việc đòi hỏi này có tính chất bắt buộc rất mạnh. Nếu không tuân thủ sẽ bị phê phán, chê trách, hoặc tồi tệ hơn nữa là loại bỏ. Những nguyên tắc chung này ảnh hưởng mối quan hệ giữa những người trong gia đình, họ hàng với nhau, hơn chút nữa là làng xóm, bạn bè, và kéo rộng ra hơn là xã hội. Tục ngữ Trung Quốc có câu, “The nail that sticks out gets hammered down.” Đây là một chứng thực cho niềm tin vào nét văn hoá này. Cũng cần nhắc lại là xã hội nào cũng có những nguyên tắc, đòi hỏi chung, nhưng trong xã hội Á Đông và Việt Nam, những điều này đã trở nên quá mức và len lỏi quá sâu vào cuộc sống chúng ta, và những xã hội Á Đông này không khuyến khích “individualism.”
Nét văn hoá này có một vài điểm có thể cho là “tốt.” Thứ nhất là nó tạo nên một môi trường dễ dàng cho việc kiểm soát, cai trị, và quản lý, từ gia đình cho tới quốc gia. Điểm “tốt” thứ hai là nó làm từng cá nhân con người cảm thấy “yên tâm” vì mình đã “pha trộn” vào cái chung, mình không “bị” khác biệt, và vì vậy sẽ dễ được chấp nhận. Còn một vài đặc điểm khác nữa giúp sự tồn tại của đặc tính văn hoá này mà tôi sẽ không bàn tới ở đây.
Tuy nhiên, tôi không thích cách suy nghĩ “conformity” này vì tôi nghĩ rằng nó có nhiều ảnh hưởng không hay cho xã hội. Đặc tính này không làm xã hội đa dạng, không khuyến khích sự khác biệt và tính sáng tạo, đánh mất sự tự do cá nhân, đồng thời nó cũng tạo điều kiện phát triển cho tâm lý ép buộc, áp lực lên người khác, đòi hỏi ở người khác. Rộng ra hơn nữa là nó là một môi trường tốt cho tâm lý độc tài và thiếu dân chủ phát triển. Đây là những điều rất tai hại bắt nguồn từ niềm tin vào “conformity.”
Mọi người trong xã hội đều bị áp lực của điều này. Những người nổi tiếng, người của công chúng lại càng bị áp lực nặng hơn nữa. Những người có thể tác động tới người khác hoặc ảnh hưởng văn hoá, chính trị lại càng bị theo dõi kỹ lưỡng hơn. Những người có tính cách, đặc điểm khác lạ với đa số quần chúng sẽ còn bị mọi người tập trung làm khó hơn nữa. Nhạc sĩ Phạm Duy đã ở trong tất cả những trường hợp trên. Tất cả mọi người hình như ai cũng có một cái “expectation” là ông phải nói như thế này, phải cư xử như thế nọ, phải tuyên bố những điều như thế kia. Khi ông không làm giống như họ trông đợi thì họ phản ứng tức thì một cách tiêu cực. Hình như họ không cho phép ông được làm những điều theo lựa chọn cá nhân của ông. Khi ông không theo những điều họ mong đợi thì lập tức ông trở thành kẻ phản bội. Ông mất tự do cá nhân. Những “public figure” ở bên Mỹ cũng ít nhiều mất đi tự do cá nhân, nhưng trong trường hợp Việt Nam thì nó rất quá khích.
Những người đòi hỏi ông bao gồm từ cá nhân cho đến những tổ chức và cả chính quyền. Đây là tâm lý ép buộc, độc tài, thiếu dân chủ của từng cá nhân con người, của những tổ chức và của chính quyền. Đây là vấn đề của cả một dân tộc, một nền văn hoá chứ không chỉ là vấn đề thuộc về thể chế chính trị. Tâm lý bệnh hoạn của nền văn hoá ép buộc phải “conform” này là những người nào không đi theo đường hướng của ta là tự nhiên trở thành kẻ phản lại ta, là kẻ thù của ta, là nguy hiểm cho ta, là người đáng để cho ta ghét và trừng phạt. Và từ niềm tin đó mà bao nhiêu vũ khí sẽ được sử dụng để phê phán, nói xấu, đả kích, hoặc tiêu diệt. Con người không còn tự do lựa chọn và không còn tự do suy nghĩ. Họ bị bắt buộc phải đi theo bên này hoặc bên kia. Một hướng đi khác, một suy nghĩ khác không được phép tồn tại. Nếu nhìn từ góc độ khiêm tốn thì những con người đòi hỏi, ép buộc đó rất kiêu ngạo, xấc xược. Nếu nhìn từ góc độ chính trị thì đây là sự độc tài, độc quyền, và không dân chủ.
Có những cá nhân đang yêu thích ông, nhưng khi nghe ông nói hoặc thấy ông làm một việc gì đó họ không thích thế là họ “nghỉ chơi” ông luôn. Có những tổ chức hoặc chính quyền muốn ông tuyên bố thế này hay thế nọ, hoặc muốn ông làm điều này điều kia mà ông không làm thế là họ coi ông như kẻ thù. Hoặc bất thình lình ông làm một điều gì đó đi ngoài sự trông đợi của họ là ông sẽ bị chỉ trích, đánh giá, và đôi khi bị đội cho bao nhiêu cái mũ. Ở Mỹ, những ý kiến trái ngược luôn luôn được tôn trọng. Có thể những người không cùng ý tưởng sẽ bày tỏ ý kiến phản đối, nhưng tự do cá nhân của con người vẫn được tôn trọng. Ở Việt Nam (và cộng đồng người Việt ở nước ngoài), khác biệt hay trái ngược là điều không chấp nhận được. Người ta sẽ bị chỉ trích, chê bai, nói xấu, đồn thổi đến một mức quá khích, cực đoan. Mọi người cứ làm như thế và không cần biết nó có công bằng hay không và “civilized” hay không. Việc ông trở về Việt Nam là một ví dụ. Vì việc trở về Việt Nam này mà ông đã bị không biết bao nhiêu tai tiếng từ những người Việt ở hải ngoại cho tới chính người Việt và chính quyền Việt Nam trong nước.
Tôi thấy việc trở về Việt Nam của “một ông già” như nhạc sĩ Phạm Duy là điều bình thường, nếu không muốn nói là tốt. Ở tuổi này ông chỉ muốn về lại và được nằm xuống trên quê hương của ông mà thôi. Đây là nơi ông yêu thương và hết lòng phụng sự thông qua âm nhạc. Đây là nơi ông được sinh ra, lớn lên, và trải qua bao nhiêu kỷ niệm. Đây là nơi ông đã từng đi khắp các miền trong đất nước, gặp gỡ bao nhiêu con người, bạn bè, và học hỏi nhiều điều. Đây là nơi ông đã được thưởng thức bao nhiêu món ăn dân tộc, thưởng thức bao nhiêu làn điệu dân ca, ngắm mây, trời, sông, suối, và thưởng thức hương thơm của hoa, của lúa, và của đất. Đây là nơi cha ông của ông đã yên nghỉ. Đây là nơi ông đã yêu và gặp người sau này là vợ của ông. Đây là nơi ông đã yêu “tiếng nước” của ông từ khi ông “mới ra đời.” Đây là nơi ông đã gọi “Việt Nam” từ khi còn nằm “bên vành nôi.” Tại sao lại không nên về một nơi như vậy? Tại sao lại “không cho” ông về một nơi như vậy? Ông chỉ mong được về lại nơi “chôn nhau cắt rốn,” và chúng ta đừng nên gắn thêm những yếu tố khác vào việc “lá rụng về cội” của ông.
Nhạc sĩ Phạm Duy đã chọn con đường không “conform.” Từ xưa ông đã chọn con đường đó rồi. Ông luôn luôn là một kẻ “du ca tự do” như ông thường nói, tự do về sáng tác âm nhạc và nhiều mặt khác. Tôi thấy rất vui vì điều đó. Tôi nghĩ mọi người cũng hãy vui lên. Và chúng ta cần phải cảm thấy may mắn vì ông đã không chịu “conform.” Chính nhờ chọn con đường đó mà Phạm Duy mới có thể để tâm hồn và sự sáng tạo của mình bay bổng lên, theo gió, theo mây bay đi khắp nơi, và nhờ vậy ông mới đạt được sự đa dạng, phong phú, đẹp đẽ trong âm nhạc, từ giai điệu, cho tới thể loại, đề tài, và ngôn ngữ. Nhờ chọn con đường đó ông mới có cơ hội làm giàu, làm đẹp cho âm nhạc Việt Nam.
Đặc điểm văn hoá thứ tư, cũng là một đặc điểm rất lớn trong văn hoá Khổng Giáo, là niềm tin vào con người hoàn hảo. Bất cứ nền văn hoá nào cũng khuyến khích con người cố gắng để trở nên tốt hơn. Nhưng trong văn hoá Khổng Giáo sự đòi hỏi này trở nên quá mức. Đàn ông được trông mong phải rèn luyện mình để trở thành người quân tử, có đầy đủ tất cả phẩm chất của một con người hoàn hảo, phải văn võ song toàn, phải đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hiếu, dũng, v.v. Phụ nữ cũng vậy, công, dung, ngôn, hạnh, v.v. Và cả nam lẫn nữ đều phải có những bổn phận và nghĩa vụ với gia đình, họ hàng, làng xóm, đất nước cần phải chu toàn. Một ví dụ nữa là ngày nay học sinh hay được khuyến khích phải giỏi “toàn diện.” Một ví dụ khác là hình ảnh của những vị lãnh tụ luôn luôn được tô vẽ, ca ngợi như những người hoàn hảo.
Dĩ nhiên không thể nào có sự vẹn toàn, nhưng con người trong những xã hội này luôn kỳ vọng và có tâm lý đòi hỏi điều đó. Điều không công bằng là người ta đòi hỏi sự hoàn hảo từ người khác nhiều hơn từ chính bản thân. Điều không công bằng là những người đòi hỏi cũng chính là những người không hoàn hảo. Điều không công bằng là chúng ta dễ dàng chê người khác không hoàn hảo hơn chê bai chính bản thân chúng ta. Điều không công bằng còn nặng hơn nữa đối với những người của công chúng, những người sẽ bị đối mặt với phê phán, chỉ trích trên các phương tiện truyền thông nhiều hơn người khác. Và khi chúng ta đòi hỏi thì chúng ta quên rằng mỗi người có một cá tính, tâm hồn, trái tim, sự thông minh rất khác nhau, và vì vậy lối sống, cái nhìn về mọi vật khác nhau. Chúng ta muốn người khác phải hoàn hảo và hoàn hảo theo “cách” chúng ta muốn. Thật kỳ lạ.
Một lần nữa nhạc sĩ Phạm Duy cũng bị tác động của yếu tố văn hoá này như bao nhiêu người khác, nhưng ông bị ảnh hưởng nhiều hơn. Tác động với ông tôi muốn nói tới ở đây là người ta, cá nhân, tổ chức, và chính quyền, đòi hỏi không những ông phải hay về âm nhạc và có những cống hiến chung cho xã hội, mà ông còn phải là một cá nhân tốt đẹp nữa (tốt đẹp theo “cách” họ muốn). Tức là con người trong xã hội Việt Nam không có khả năng tách rời được con người xã hội và con người riêng tư cá nhân của Phạm Duy. Để đánh giá một con người hoàn hảo như đòi hỏi của xã hội Á Đông dĩ nhiên phải nhìn vào cả hai mặt của cuộc sống con người, xã hội và đời tư. Tách ra một trong hai dĩ nhiên không thể đánh giá sự hoàn hảo được nữa. Đây là một đòi hỏi rất không công bằng và không tốt cho xã hội và con người. Đây là một đòi hỏi rất vô lý và không thể nào thực hiện được. Không một ai trong cuộc đời này hoàn hảo cả. Nếu có người hoàn hảo thì đó chỉ là sản phẩm của sự tô vẽ, dối trá mà thôi.
Điều đáng buồn là khi xem xét cuộc đời của một người, chúng ta có xu hướng để ý đến những điều xấu hơn những điều tốt. Và khi tìm được một điều không hay trong đời riêng rồi thì con người có thể xử dụng nó để chà đạp người đó và ngay cả những điều tốt đẹp người đó cống hiến cho xã hội. Tôi thấy trong xã hội chúng ta, ai cũng tự cho mình cái quyền đó, và cho rất nhiều, để đánh giá, đòi hỏi người khác. Khi đánh giá, đòi hỏi như vậy chúng ta luôn luôn quên rằng chúng ta không hoàn hảo, chúng ta có nhiều điều xấu xa, chúng ta chẳng làm được điều gì cống hiến cho xã hội.
So với Phạm Duy, rất ít người trong chúng ta có được cống hiến to lớn như ông đã làm cho văn hoá dân tộc. Mặc dầu vậy, nhiều người và ngay cả chính quyền đã cố ý quên đi những đóng góp to lớn, đẹp đẽ, ý nghĩa Phạm Duy dành cho âm nhạc và văn hoá Việt Nam. Thay vào đó, nhiều người, chính quyền, cũng như những tổ chức chính trị luôn sẵn sàng dùng việc đời tư và xu hướng chính trị cá nhân của ông để làm giảm giá trị âm nhạc của ông, làm giảm giá trị cá nhân ông, để tẩy chay ông, và từ chối những cống hiến to lớn của ông. Như đã nói, họ không có khả năng tách rời, hoặc cố ý không tách rời, con người quần chúng và con người cá nhân. Tôi tin rằng tâm lý đó là do một phần bị ảnh hưởng rất nặng qua hơn hai ngàn năm của niềm tin vào con người hoàn hảo trong Khổng Giáo. Tâm lý đó dẫn đến những đòi hỏi vô lý. Tâm lý đó được người ta sử dụng để phê phán và loại trừ người khác, cũng như phê phán và loại trừ lẫn nhau. Đây là điều không công bằng cho Phạm Duy và có tác hại rất lớn trong văn hoá Việt Nam và cho dân tộc Việt Nam.
Xã hội Tây Phương thì khác, họ tách bạch cuộc sống riêng tư và cống hiến chung cho xã hội của con người rất rạch ròi. Nếu có xoi mói đời sống riêng tư đi nữa thì cũng chỉ có tính cách tạm thời trong một giai đoạn mà thôi, và vì mục đích kiếm tiền trong một giai đoạn với nhiều tính chất giải trí, “pop culture” và “tabloid” nữa. Sau đó thì những công sức, cống hiến và tài năng của con người vẫn được ca ngợi, biết ơn và gìn giữ cho thế hệ sau. Đây là tính cách, suy nghĩ và hành động của những dân tộc thông minh. Họ có thể nói lên những điều không hay của một người, vừa đủ để mọi người nhận biết, để học hỏi kinh nghiệm, chứ không phải để dèm pha, nói xấu, phá huỷ danh tiếng, làm hoen ố danh dự, hoặc chống đối chính trị. Sau đó họ tập trung ca ngợi những điều hay, những cống hiến, công lao và tài năng của người đó một cách công bằng, trung thực, và tôn trọng. Kết quả là xã hội của họ được học hỏi từ những tài năng đó, biết ơn những tài năng đó. Tên tuổi những con người đó và cống hiến của họ sẽ tồn tại. Xã hội của họ sẽ phát triển. Họ biết không bao giờ có con người hoàn hảo, không bao giờ nên có những đòi hỏi vô lý. Họ biết tách rời con người của công chúng với những cống hiến cho xã hội ra khỏi con người riêng tư. Họ công bằng, tôn trọng người khác, và dân chủ.
Nền văn hoá của Phạm Duy không cho ông một môi trường như vậy. Nó không công bằng cho ông. Nó cũng thật không tốt cho người Việt. May mắn thay nhạc sĩ Phạm Duy đã không để những nét văn hoá đó ảnh hưởng đến việc sáng tác âm nhạc của mình. Ông vẫn say mê làm việc hết lòng để phục vụ đam mê âm nhạc của ông và góp phần làm giàu văn hoá dân tộc. Hy vọng rằng xã hội sẽ ngày càng phát triển hơn và con người sẽ bớt bị ảnh hưởng bởi nét văn hoá Khổng Giáo tai hại này. Đối với cá nhân tôi, tôi không bao giờ quan tâm, thắc mắc, để ý cuộc sống riêng tư của những “public figure” hoặc nhạc sĩ Phạm Duy cả. Tôi chỉ nhìn vào tài năng và đóng góp chung cho xã hội của họ để thưởng thức, ca ngợi, học hỏi, và biết ơn họ mà thôi.
***
Xin được kết luận là tôi nhận thấy rằng những đặc điểm văn hoá ảnh hưởng đến cuộc sống mọi người và từng cá nhân chúng ta, bao gồm cả Phạm Duy, nhiều lắm, không kể hết ra được. Niềm tin của chúng ta về sự bày tỏ tính khiêm tốn, cái nhìn về cách hành xử, ăn nói khéo léo hay thẳng thắn, thói quen bịa đặt, thích tin đồn, cũng như yếu tố “tuân thủ - conformity,” và sự đòi hỏi con người hoàn hảo tác động tới tất cả chúng ta và đã ảnh hưởng không ít đến nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi thấy đó là điều rất không tốt cho xã hội Việt Nam. Tôi thấy đó là điều rất không công bằng đối với Phạm Duy, một nhạc sĩ tài năng, một người đã có cống hiến rất nhiều cho văn hoá Việt Nam, và cống hiến nhiều nhất cho âm nhạc Việt Nam.
Chúng ta nên cẩn thận và nhớ rằng tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi những yếu tố văn hoá đó, cũng như Phạm Duy mà thôi, và đều có thể trở thành nạn nhân của chúng. Tất cả chúng ta, cùng với Phạm Duy, đều cùng ngồi trên một con thuyền mà thôi, đều cùng là nạn nhân của những yếu tố văn hoá đó. Vì vậy chúng ta cần công bằng, cẩn thận hơn trong việc đánh giá và đòi hỏi chính mình và người khác. Chúng ta nên công bằng hơn với bản thân và người khác, và nên tôn trọng lẫn nhau hơn. Chúng ta hãy cẩn thận, cố gắng làm cho con thuyền vững chãi, chứ đừng đua nhau lắc nó. Tất cả chúng ta có thể chìm nếu như con thuyền chìm; tất cả chúng ta sẽ chìm nếu chúng ta có một nền văn hoá xấu. Chúng ta là nạn nhân của những nét văn hoá xấu, nhưng chính chúng ta lại là người tạo nên những đặc tính văn hoá trong xã hội. Chúng ta là người quyết định hình dáng và màu sắc, cũng như sự vững chắc, chìm nổi của con thuyền đó. Tôi mong rằng chúng ta sẽ kỹ lưỡng hơn trong việc lựa chọn mọi việc, công bằng hơn, và tạo điều kiện tốt để mọi người làm việc, sáng tạo, và đối xử với nhau văn minh hơn, để làm sao mà kết quả là đất nước đi lên, văn hoá giàu hơn, âm nhạc đẹp hơn. Như vậy mới sáng suốt.
Tôi tin tưởng những điều hay, đẹp thực sự sẽ tồn tại muôn đời. Tôi tin rằng âm nhạc của Phạm Duy sẽ tồn tại mãi trong văn hoá Việt Nam, đến bao thế hệ sau nữa. Tương lai và những con người sáng suốt, thông minh trong tương lai sẽ đem lại công bằng cho nhạc sĩ Phạm Duy, một người khác chúng ta ít nhiều, nhưng cũng là một người như mọi người chúng ta, cùng ngồi trên một con thuyền văn hoá.
☺☼
Nguồn: email từ tác giả, updated 16.11.2011
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)