Biển Nhớ
NS Nhật Bằng (NB) sinh năm 1930 tại Hà Nội. Cha ông quê ở Thanh Hóa, mẹ ông người Hà Nội . Họ có với nhau 4 người con: 2 trai, 2 gái mà NB là con trai trưởng. NB học Trung Học tại trường Bưởi ở Hà Nội và là bạn rất thân của Vũ Đức Nghiêm và Phạm Đình Chương . Cả hai sau này đều là nhạc sĩ nổi tiếng.
NB có khiếu âm nhạc từ nhỏ. Năm 1947, khi chỉ mới 17 tuổi, NB sáng tác nhạc phẩm đầu tay ”Đợi Chờ” kể lại mối tình học trò của mình khi còn ở Hà Nội . Lúc ấy, ông đang ở quê nội Thanh Hóa ngậm ngùi nhớ về Hà Nội của thuở học trò thơ ngây mà ông đã phải bỏ lại từ mùa thu khói lửa 1946 như hàng ngàn người khác.
Tác phẩm đầu tay này có tên nguyên thủy là ”Hoa Trăng” nhưng khi người bạn thân Phạm Đình Chương mang vào Nam để phổ biến đầu thập niên 50, PĐC đã đề nghị đổi tên thành ”Đợi Chờ” . Khi bài hát này ra đời, NB còn là học sinh tại trường Trung Học Đào Duy Từ ở Thanh Hóa và đang học hòa âm và dương cầm với nhạc sĩ đàn anh Đỗ Thế Phiệt.
Năm 1950, NB trốn gia đình ở Thanh Hóa về Hà Nội một mình. Ông tiếp tục việc học tại trường Hàn Thuyên đến 1952 thì nhập ngũ vào ngành quân nhạc . Tại đây ông làm quen với một số bạn mới như Văn Phụng, Đan Thọ, Nguyễn Hiền, Nguyễn Túc mà sau này đều là những nhạc sĩ nổi tiếng. Năm 1954, khi đất nước chia đôi, ông di cư theo trường quân nhạc vào Nha Trang.
Trong thời gian 4 năm ở Hà Nội, NB sáng tác khá nhiều nhạc phẩm, đáng kể nhất là ”Dạ Tương Sầu” (mà có lần BN đã kể bên thread ”Những ca khúc vượt thời gian”), ”Khúc Nhạc Ngày Xuân”, “Một Chiều Thu” và đặc biệt là ”Ánh Sáng Đồng Quê” được nổi tiếng ngay khi ông đến với “Nắng đẹp miền Nam”.
Thời gian 2 năm ở Nha Trang cũng tạo nguồn cảm hứng để ông cho ra đời những sáng tác như ”Vọng Cố Đô”, "Tiếng Vọng Rừng Xanh”, v.v... và một số tác phẩm viết chung với NS Đan Thọ.
Năm 1956, NB đến Saigon. Kể từ đó sự nghiệp của ông chắp cánh. Cùng với những nhạc sĩ di cư từ Bắc vào Nam khác như Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Đan Thọ, Nguyễn Túc, Trịnh Hưng (nổi tiếng qua bài ”Màu Tím Hoa Sim”, “Lối Về Xóm Nhỏ”), Thanh Bình (”Lá Thư Về Làng", "Những Nẻo Đường Việt Nam”), Anh Hoa (“Hận Ly Hương”), Phó Quốc Lân (”Hướng Về Đất Bắc”), “cô hàng cà phê” Canh Thân, Vũ Thành, nhạc sĩ Nhật Bằng đã góp công tạo nên một đợt sóng thần hùng vĩ làm phong phú cho âm nhạc của “nắng đẹp miền Nam” .
Thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của ông là từ năm 1956 đến 1969 . Sự nghiệp của ông để lại cho đời sau gồm khoảng 100 nhạc phẩm thuộc 3 khuynh hướng rõ rệt: nhạc quê hương, nhạc tình cảm và nhạc chiến đấu .
Những bài nhạc quê hương của ông được dân chúng yêu mến như ”Sau Lũy Tre Xanh”, “Bóng Quê Xưa”, “Nước Mắt Quê Hương Này”, “Anh Về Một Mùa Trăng”, “Mái Tranh Chiều”, “Hương Quê”, “Tiếng Vọng Rừng Xanh”, “Khúc Nhạc Ngày Xuân”, “Thu Ly Hương”, “Mưa Đầu Mùa” nhưng nổi tiếng nhất là bài ”Thuyền Trăng” viết chung với “chuyên gia đặt lời” Thanh Nam.
Những bài hát này hướng về những nơi ông đã từng sinh sống, đặc biệt là Hà Nội, nơi ông lớn lên và bắt đầu vào yêu. Hình ảnh Hà Nội sáng loáng trong những ca khúc đậm tình quê hương của Nhật Bằng, nhất là bài ”Vọng Cố Đô” nói lên sự đau đớn, dằn vặt, tiếc nuối khi ông phải đành đoạn lìa xa quê cha đất tổ của mình .
Loại nhạc chiến đấu được NB sáng tác trong thời gian ông phục vụ cho Phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến với cấp bậc Chuẩn Úy dưới quyền Trưởng Phòng là Đại Úy Đinh Thành Tiên (tức nhà thơ Tô Thùy Yên). Cùng làm việc với ông là những nhân viên khác như nhạc sĩ Anh Việt Thu (đã chết năm 1974 vì bạo bệnh), Trần Thiện Thanh, v.v...
Những sáng tác thuộc loại nhạc chiến đấu đáng kể nhất là bài ”Bóng Người Chiến Sĩ” và ”Chiến Sĩ Ca” . ”Chiến Sĩ Ca” có thể được xem là một trong những nhạc phẩm được biết đến nhiều nhất trong quân đội. Bản này được sáng tác năm 1968 và đã mang về cho NB giải sáng tác nhạc quân đội xuất sắc nhất trong năm đó.
Qua lãnh vực nhạc tình cảm, NB cũng tài hoa không kém . Đây là những sáng tác dựa vào tâm sự riêng thì ít nhưng do hư cấu thì nhiều . Nhạc tình cảm của ông nhẹ nhàng, thanh thoát như ta có thể thấy qua ”Dạ Tương Sầu”, “Một Chiều Thu”, “Mai Ngày Anh Về”, “Lỡ Làng”, “Bóng Chiều Tà”, “Tình Nghệ Sĩ”, “Hãy Quên Niềm Thương Nhớ”, v.v...
Thời gian từ 1969 đến 1975, nhịp sáng tác của NB chậm hẳn lại vì ông quá bận rộn trong nhiều sinh hoạt văn nghệ đa dạng.
Bây giờ BN xin trình bày những hoạt động văn nghệ của NS Nhật Bằng. Đến Saigon năm 1956 chẳng bao lâu thì ông vào làm việc cho Đài Phát Thanh Quân Đội. Tại đây, ông quen với một nữ nhân viên đồng sự tên Vũ Thị Tường Huệ . Năm 1958, Tường Huệ trở thành vợ của NB rồi sau đó nghỉ việc hẳn để lo cho gia đình và ít khi xuất hiện bên người chồng nhạc sĩ .
Khoảng cuối thập niên 50, qua sáng kiến của cố nhạc sĩ Văn Phụng, bộ ba Nhật Bằng, Anh Ngọc (ca sĩ nổi tiếng vào thời đó) và Văn Phụng thành lập ban tam ca nam ”Do Si La” để trình bày những sáng tác của Văn Phụng và Nhật Bằng . Họ được khán giả chiếu cố ngay qua cách trang phục lạ mắt, sặc sỡ . Ba giọng hát quyến chặt, hòa vào nhau thật tài tình. Thêm vào đó là phần hòa âm tuyệt vời của Văn Phụng . Những bài hát do họ trình bày được nhiều người ưa chuộng như ”Tiếng Ca Bên Đồi Vắng”, “Vui Bên Ánh Lửa” (Văn Phụng), “Ánh Sáng Đồng Quê” (Nhật Bằng) .
Nhật Bằng còn thành lập ban hợp ca "Hạc Thành" cùng với các em gái của ông là Thế Tần, Hồng Hảo và em trai Nhật Phượng . Họ hát rất điệu nghệ và được khán thính giả yêu thích qua những nhạc phẩm như ”Được Mùa” (Phạm Đình Chương) và một số nhạc phẩm thường được ban hợp ca Thăng Long trình bày. Tiếc là ban hợp ca sớm tan rã vì Thế Tần, Hồng Hảo và Nhật Phượng phải đeo đuổi việc sách đèn và khi Hồng Hảo lập gia đình thì Hạc Thành tan rã hẳn . Nhật Bằng còn lại một mình nên đầu quân với nhiều ban nhạc khác, hát trong hơn 10 năm trời đến giữa thập niên 60 mới ngưng hẳn . Khi hát nhạc biệt thể, ông có phong độ rất là Mỹ, đem lại một nét mới lạ cho giới thời thượng . Ông chơi contre-basse (đại hồ cầm) rất hay và thỉnh thoảng trình diễn cho các đài phát thanh.
Trong thời gian từ 1969 đến 1975, ông tạm ngưng sáng tác vì quá bận rộn trong những hoạt động văn nghệ tại các đài phát thanh, vũ trường và các câu lạc bộ Mỹ .
Biến cố năm 1975 đã làm gia đình ông ly tán. Ba người em ruột của ông trong ban hợp ca Hạc Thành chạy được qua Mỹ ngay trong năm 1975. NB ở lại để trả nợ cho sự nghiệp âm nhạc và chức vụ Chuẩn Úy Tâm Lý Chiến của mình. Trong suốt 7 năm bị giam cầm, ông không sáng tác được một bản nhạc nào vì quá lo lắng cho vợ con bơ vơ, cực khổ. Ra khỏi tù năm 1982 , nguồn cảm hứng của ông đã kiệt quệ, tắt nghẹn và cho mãi đến bây giờ, 20 năm sau, nguồn cảm hứng ấy như lá đã khô héo không thể nào làm sống lại được nữa.
Ôi ! cảm hứng gì được, sáng tác gì nổi trong bạo tàn, đe dọa, áp bức. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm tại Hà Nội năm 1956 trăm hoa đua nở, hùng khí thế kia mà cũng phải rút lui trước bàn tay đàn áp không thương xót. Nghệ sĩ, trong công việc sáng tác, trên con đường tìm kiếm chân thiện mỹ , chỉ có thể viết trong không khí tự do, thoải mái. Chân thiện mỹ chỉ có thể được khám phá và nuôi dưỡng trên đất yêu thương không nhuốm bùn tị hiềm, sâu bọ hận thù, ganh ghét .
Quá chán ngán với thế sự, NB lây lất sinh kế qua ngày đoạn tháng. Ông đi theo nhạc sĩ Phạm Trọng (sau này là Phạm Trọng Cầu) và một số nhạc sĩ trẻ ôm đàn trình bày nhạc tiền chiến tại những trường đại học cho . . . đời mua vui .
Năm 1990, NB cùng vợ và 5 con sang Mỹ theo diện HO và hiện định cư tại thành phố Herndon, tiểu bang Virginia. Nhạc sĩ Nhật Bằng đang sống những tháng ngày êm ả, an hưởng tuổi già bên cạnh con cháu.
Xin cám ơn nhạc sĩ và kính chúc nhạc sĩ trường thọ .
Nguồn: Dactrung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét