Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2009

Chung Quanh Chuyện Sáng Tác

Luân Hoán (sưu tầm)

Nhạc Sĩ Lê Uyên Phương( 1941-1999)

Trả lời nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập nghệ sĩ 1 xuất bản năm 1995)

Viết nhạc đối với tôi là một hình thức viết nhật ký. Tôi không viết ca khúc bằng sự tưởng tượng mà bằng những gì thực sự xảy ra trong cuộc sống của tôi.

Tôi không viết từng bài hát riêng rẽ, mà luôn viết thành từng tập ca khúc, là một đề tài nhất định mà tôi cố gắng để đào sâu tới mức nào tôi có thể.

Có những ca khúc viết nhạc trước lời sau, có những ca khúc viết lời trước , có những ca khúc nhạc và lời viết cùng một lúc. Khi sáng tác tôi luôn luôn cảnh giác để không bị ảnh hưởng bởi bất cứ tác giả nào.

Tôi đều ưng ý nhất mọi tác phẩm tôi còn giữ lại vì tác phẩm không ưng ý tôi đã loại khỏi những tập nhạc của tôi. Mỗi ca khúc đánh dấu một thời điểm nhất định và không thể nào thay thế hay có thể tìm lại được.

Không có thói quen khi sáng tác, cảm hứng có thể đến với tôi trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Lê Uyên Phương


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc Sĩ Văn Cao (1923-1995)

Kể chuyện liên quan đến một số tác phẩm của ông
(trích từ video Giấc Mơ Một đời Người
do đinh Anh Dũng đạo diễn. Yến Xuân Productions thực hiện,
hảng phim Trẻ sản xuất năm )

Tôi là người luôn luôn thất bại trong tình yêu. Cái thất bại này bởi tôi là người không giỏi về cách giao lưu với những người đàn bà. Mà lại đối với những người đẹp, tôi lại càng bối rối, không bao giờ nói được với người ta, đành nói trong thơ nhạc thôi.

Thiên Thai- Tại sao tôi nói đến Thiên Thai, là bởi vì một nơi, một cõi nào đó người ta coi là đất Hứa, mà đất Hứa thì không ai tìm được trên trần gian này. đi tìm mãi trong cái hoài niệm của mình, tuổi thanh niên, thì nhớ rằng có lần tìm ra được...

Trương Chi - Tôi viết bài này để nói cái tình cảm của tôi, là mình chỉ có một mình . Không sống lại với cái thú quá mơ mộng của cuộc đời không đạt được.

đàn Chim Việt - Tôi yêu một người con gái mà tôi không ngõ lời với người ta, nhưng họ hiểu và họ tới với tôi, thành ra nó mới có cái chuyện là Em đến tôi một lần...một mối tình câm, mà để lại đời mình một bài hát thế thôi, không có cái gì cả.

Buồn Tàn Thu - Có lẽ cuộc đời sinh ra tôi ở mùa Thu, đấy là những ngày sinh nhật của tôi vào mùa Thu. Không hiểu sao, thơ mà mình ảnh hưởng là những bài thơ về mùa Thu. Và bản thân tôi, thì mùa Thu, ngoài cái ấm của nó, cái se lạnh của nó về cuối mùa, thì cũng là cái ngày người ta gọi là nhiều tưởng tượng nhất.

Thu Cô Liêu - Tôi viết Thu Cô Liêu cũng là mùa thi của những người đang đi học, mùa thu của những nhà thơ. Mùa Thu mang nhiều thay đổi của con người. Và cái Thu Cô Liêu là cái Thu buồn bã của một cái ngày xa vắng và cái nhớ đi tìm người yêu trong cái Thu thôi.

Cung đàn Xưa - Có nhiều buổi sáng có người khi hết giấc mơ lại tiếp tới thấy một giấc mơ khác ở trong đời. Những ước mơ thì không có thật, nhưng mà nó đem lại cho mình, thường nghĩ tới những ngày sống cũ. Nghĩ lại, vẳng lại những tiếng nói của kỹ niệm cứ đeo đẳng không thể quên được. Những cái đó , tôi tìm ra được những cái điều mà tôi đã mất đi trong tuổi thanh niên của tôi.


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng (1937-2000)

điện đàm cùng nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ sĩ 3 xuất bản năm 1998)

Bắt đầu viết nhạc từ thời còn đi học...khoảng 55, 56 nhưng mãi đến 65, 66 ca khúc mới có cơ hội phổ biến rộng rãi.

Những bài hát của tôi viết ra phần nhiều là man mác có dính líu đến đời sống riêng của tôi, đời sống về tình cảm riêng của tôi...cùng bối cảnh của từng thời. Tình cảm của tôi thì có nhiều biến động...Tôi không cho một thứ tình cảm nào gọi là mất mát trong đời tôi cả....Tình yêu nó có cái thời của nó, thành thử khi nó đã có, rồi không có nữa thì cái có đó vẫn còn trong cách nghĩ ngợi nào đó.

Về sáng tác, Có 3 giai đoạn :

1. Giai đoạn từ 75 về trước, thời đất nước chiến tranh.

2. Giai đoạn từ 75 đến 85. lúc tôi còn kẹt trong nước, 10 năm.

3. Giai đoạn thoát khỏi đất nước Việt Nam Cộng sản. Giai đoạn này có thời gian ngắn sống ở trại tỵ nạn Galang, Indonesia và thời gian định cư tại Hoa Kỳ từ cuối năm 85 đến nay.

Mỗi giai đoạn trong tác phẩm của tôi đều có sự hiện hiện của Tình Yêu, hoặc Thân Phận của con người qua mọi biến chuyển của cuộc sống. Dĩ nhiên nó xen lẫn nỗi đau thương và niềm hạnh phúc.

Công trình sáng tác, có thể kể :

Những nhạc phẩm đầu tay của tôi, rất tiếc đã bị tuyệt bản vì lý do này hay lý do nọ, nhất là vì biến cố tháng 4/75.

Những nhạc phẩm được trình làng đầu tiên là : Rồi 20 năm Sau. ‘Rồi 20 Năm Sau’ gồm hai phần riêng biệt : phần 1: ‘Lời Của Mẹ’và phần 2 :’Lời Của Con’(đã bị tuyệt bản). Trong khi ‘Lời Của Mẹ’ đến nay vẫn được phổ biến, đôi khi dưới tựa đề chung là ‘Rồi 20 Năm Sau’. Cũng trong thời gian 66, tôi đã viết một loạt tình khúc và in thành tập gồm 14 bài mang tên ‘Trên đỉnh Yêu đương’ , trong đó có 4 bài được phổ từ thơ Hoàng Trúc Ly, xuất bản năm 69. Hối Tiếc, Mây Hạ, Yêu Dấu Chưa Nguôi...Cõi Nghìn Trùng (thơ Hoàng Trúc Ly) cũng như Trên đỉnh Yêu đương đều nằm trong tuyển tập này. Từ đó đến những năm sau tôi đã viết ‘Bài Hương Ca Vô Tận’, ‘Bảy Ngày đêm Góp Lại’, ‘đưa Em Vào Hạ’, ‘Mùa Xuân Trên Cao’, ‘Trộm Nhìn Nhau’vv...Rồi biến cố Mậu Thân 1968 tôi viết ‘Chuyện Một Chiếc Cầu đã Gãy’ cho Huế và cả nước đau thương, rồi ‘Kinh Khổ’, ‘Khúc Sinh Ca’, ‘đêm Trên Quê Hương’vv...Không nhớ hết...song song là những bài tình ca như ‘Mộng Sầu’,’Tưởng Niệm’, ‘Tưởng Không Còn Nhìn Thấy Nhau’, ‘Em Có Còn Trở Lại’, ‘Nghìn đêm Như Một’vv Rồi loạt bài về hòa bình cho thời Hiệp định Paris như ‘Vĩnh Biệt Chiến Trường’,’Hòa Bình ơi, Việt Nam ơi’,’Hình ảnh Của Một Ngày Hòa Bình’, ‘Nếu Xuân Này Hòa Bình’vvv...Sáng tác trên đất Mỹ, khởi đầu là ‘Mười Năm Yêu Em’, rồi ‘Tình Ca Mùa đông’, ‘Thư Xuân Hải Ngoại’, ‘đêm Nhớ Về Sàigòn’, ‘Hãy Hát Lên Tin Yêu’vv....Những nhạc phẩm đó có thể đi vào cá biệt hoặc đi vào đại thể, như có những bài về tình yêu nhưng vẫn có những vướng mắc của con người đang sống lưu vong. đó là quan niệm của tôi, một người viết nhạc, một người lưu vong sáng tác. đề tài sáng tác của tôi thay đổi theo nhịp sống, hơi thở chung quanh của người Việt hải ngoại...

Mỗi một thời nó đều có những sáng tác đi theo tôi chứ tôi không có thay đổi cách sáng tác gì cả. Hoàn cảnh cho tôi những biến đổi trong sáng tác. Tôi nghĩ đó là điều cần cho tôi và đó là cách để cho mình có những sáng tác dồi dào. Nó ghi nhận được từng thời một của cuộc sống, ít nhất cho bản thân của mình. Bên cạnh đó là những người cùng sống với mình, cùng chia sẻ đời sống, chia sẻ những cái vui cái buồn với mình. Vậy thì chủ đề tôi vẫn viết về Tình Yêu, Quê Hương, Thân Phận Con Người và Giữa Con Người Với Con Người cũng như Giữa Mình với chính bản thân mình...Trong đời sống có những cái tiêm nghiệm, cách sống, thái độ sống với mình, với người khác...tất cả những cái đó đều ghi nhận trong cuộc đời sáng tác của tôi.

Trầm Tử Thiêng


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc Sĩ Văn Phụng (1931-1999)

trả lời nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ sĩ 5 xuấn bản năm 2001)

... được Linh mục Mai Xuân đỉnh, chỉ dẫn thêm về nhạc, và sau đó tự học hỏi qua sách vở. Cái gì không hiểu tôi cũng tò mò lấy tự vị, dictionnary ra học. Chỉ học lấy vì ông cụ đâu có cho học !...ông cụ thời ấy khó lắm, chỉ có muốn tôi làm bác sĩ thôi, đâu có muốn tôi làm nhạc sĩ. ông cụ bực lắm . Nhưng mà nhân thể tôi viện cớ là phải vào lính. Một là mình đi lính chiến, hai là mình đi lính nhạc. Mà lính nhạc thì nghe có vẽ dễ chịu hơn...cầm súng, cầm siếc chán lắm !

Khởi đầu với ‘ô Mê Ly’ vào năm 1948 và kết thúc với ‘Chán Nản’ năm 1972. Sáng tác lai rai...chẳng có lúc nào mạnh, lúc nào yếu cả...cứ làm đại thôi ! Có hứng là làm, gặp cái gì làm cái đó....Nói đúng thì đối với tôi, bài nào tôi cũng hài lòng. Không có bài gì đặc biệt lắm. Nhưng cũng có một vài bài hơn hơn một chút, thí dụ như bài ‘Suối Tóc’chẳng hạn, tôi thích lắm. Hay như bài ‘Tôi đi Giữa Hoàng Hôn’. Mọi người đều thích bài đó. Gần đây nhất là bài ‘Chán Nản’, vào độ 72, 73 gì đó, thiên hạ thích lắm.

Những ca khúc khác, được biết đến nhiều : Các Anh đi (phổ thơ),Tình, Suối Tóc, Mưa, Tiếng Hát Với Cung đàn, Tiếng Dương Cầm, Trở Về Huế, Ghé Bến Sài Gòn....

Văn Phụng


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (1929-2001)

tài liệu của nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ sĩ 4 - xuất bản năm 2000)

.. Khi nhỏ, tôi làm nhạc trong lúc ở trung học. Mình cứ đi theo lý tưởng của mình và tôi có một niềm đam mê dễ sợ lắm, do đó mình cứ làm hết việc này qua việc khác. Khi mình làm những cái việc đó mình có nghĩ rằng một ngày nào những việc gì mình làm sẽ tích lũy để mang đến cái danh cho mình không ? Tuyệt đối không ! Bởi tôi nghĩ rằng, nếu mình làm được gì thì mình làm lấy thôi. Nhưng mà qua trên 50 năm, thì tôi thấy, đến phút này, nghiệm lại, và thấy được mình đã làm nhiều quá.

Không những tôi làm về nhạc mà còn đi vào những ‘fields’ khác. Tôi tạo ra show, làm đạo diễn để tập cho các ca sĩ biểu diễn. Tôi còn làm về vũ, sáng tạo với những vũ sư mà tôi thấy có khả năng để xây dựng cho nền vũ của mình. Làm về điện ảnh, viết nhạc kịch, làm đủ thứ. Không phải mình tham lam, nhưng nghĩ rằng là mình làm được cái gì thì làm. Sau năm mươi mấy năm trời, bây giờ mình ngồi lại, thấy mình làm quá nhiều ! Cho nên về cái bệnh của tôi, tôi ít khi than phiền lắm. Một người như vậy thì phải như vậy thôi ! đã quá nhiều ‘stress’trong đời văn nghệ rồi !.

...Lúc sau này khi về hưu rồi, tôi chỉ sống với âm nhạc thôi...

Một hôm ngồi ăn với một cô ca sĩ có chiếc răng khểnh đẹp, nhìn thấy cái miệng đẹp quá, tôi tưởng tượng như một đoá hoa. Tôi đã bị ảnh hưởng bởi những chuyện hoa rồi...bây giờ hoa ở nhà mình cũng có, hoa ở ngoài vườn cũng có, hoa ở ngoài đời cũng có. Nếu bây giờ mỗi người con gái đều mang cái hoa nở ra miệng thì quá đẹp vì vậy, tôi làm bài ‘Nụ Cười Hoa Nở’(khoảng tháng 2 năm 98)...Những cái đó tôi không dám nói là độc đáo, nhưng tôi dám thành thực để nói ra. Nếu sau này tôi chết rồi, nếu ai nghe những điều đó họ có thể hơi cười, mà điều đó họ không thể hiểu được. Tôi có những phút sống với âm nhạc, với nghệ thuật như vậy thôi !

Trong cái giai đoạn cuối cuộc đời tôi, tôi sống như một ông tiên. Tôi không có lo nghĩ cái gì nữa hết....

Buổi sáng dậy, tôi uống nước, tôi nhìn ra dàn hoa, tôi nhìn những con chim. Tôi nghe vang vọng lại những cái bài của tôi đã làm hay những cái bài người khác. Rồi tôi lại thích viết nhạc, tôi đọc sách, tôi lại tiếp tục đọc sách. Tôi thấy như vậy là cuộc đời đẹp đẽ quá, và tôi sáng tác được. Nhưng tôi khác ông tiên cái chỗ này : ông tiên không còn vướng bụi trần, còn tôi thì khổ quá, đến phút này mà trái tim vẫn rung động ! Như vậy vẫn còn vướng bụi trần, bắt tôi phải sáng tác hoài. Nó chỉ khác chỗ đó thôi.

Hoàng Thi Thơ


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn

trả lời nhà báo Nguyễn Phúc
biên tập viên đài BBC Luân đôn
(tạp chí Văn Học)

...Cái buồn cười là khi bắt đầu viết nhạc, ưng viết cho khúc mắc, cho khó khăn, sau này đọc thêm, học thêm, nghe nhiều mới thấy được cái simpicité (giản dị) mà đạt được mới là khó.

Ðúng vậy, mãi về sau này, khi vào thành rồi, tôi mới học composition. Nhưng có cái buồn cười là lúc đó, mình chưa học composition mà lại viết nhạc, viết được có lẽ nhờ mình nghe nhiều, sống nhiều với âm nhạc. Cũng như có nhiều người có học luật lệ gì về thi ca đâu nhưng mà vẫn làm thơ, vẫn làm được thơ. Riêng trong âm nhạc, tôi nghĩ muốn viết cho vững, tối thiểu phải học harmonie, nó giúp cho mình chấm câu dứt đoạn. Người sáng tác nhạc ít nhất cũng phải biết hòa âm. Thiếu kỹ thuật đó, nhạc phẩm không có được mạch lạc chặt chẻ.

Các nhạc sư Pháp cho rằng âm nhạc là sự vận chuyển của tâm trạng và tư tưởng. Sự vận chuyển này được tạo ra bởi hai trạng thái động và tĩnh. Có nghĩa là căng thẳng (tension) và buông dãn (détente). Ðể dễ hiểu, khi nghe một bài vọng cổ, đến đoạn nói lối (có khi kéo dài đến hàng trăm chữ), có lúc tiết điệu và âm điệu đang tạo sự căng thẳng, người nghe nín thở chờ đợi, chờ đợi gì, chờ đợi sự buông dãn của âm Hò chấm câu, là lúc cả rạp vỗ taỵ Lúc này là lúc âm nhạc chủ động, lời văn của bài ca là thứ yếu, chỉ có âm Hò họa điệu (chute) để cho người nghe thở phào. Có tiết điệu trống (rythme masculin), tiết điệu chiều ý người nghe theo nét nhấn (accent) của nhịp ấn định. Và tiết điệu mái (rythme féminin) là tiết điệu đưa lệch nét nhấn mà người nghe chờ đợị. Ðấy là một vài chi tiết của composition.

Sau khi vào thành rồi, tôi bắt đầu học thêm khóa hàm thụ với Ecole Universelle ở bên Pháp. Tháng tháng gửi mandat-poste cho họ, theo học cours de composition. Sau khi học xong tôi được chấp nhận là hội viên của SACEM Hội Nhạc sĩ Pháp. Lúc bấy giờ tôi quyết tâm đeo đuổi ngành nhạc....

Lê Trọng Nguyễn


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Phạm Duy

trả lời nhà báo Trường Kỳ
Về Sự Nghiệp Và Những Bài Nhạc Tình Ca
( Tuyễn Tập Nghệ Sĩ 4 xuất bản năm 2000)

Nếu cần phải tóm tắt cái gọi là sự nghiệp của Phạm Duy, thì đây là một dịp để tôi báo cáo với những người yêu nhạc :

Có 3 con người ở trong tôi, cũng như mọi nghệ sĩ khác. Ba con người rõ rệt

Thứ nhất, là con người tình cảm : là soạn những bản nhạc tình yêu cho cá nhân, không cứ ở trong một thời đại nào, ví dụ những bài nhạc như ‘Ngày đó Chúng Mình’, là những bài tình ca.

Con người thứ hai : con người xã hội : là con người khóc cười theo mệnh nước, thì khởi sự bằng những bài ca yêu nước, yêu lịch sử với những ‘Gươm Tráng Sĩ’, ‘ Chiến Sĩ Vô Danh’ ; qua những ‘Bà Mẹ Gio Linh’, qua cả những bài như ‘Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc’....Cái xã hội tốt hay xấu, vẻ vang hay nhục nhằn thì nó đều hiện qua âm nhạc của tôi,

Con người thứ ba : là con người tâm linh, con người lúc đó không còn là con người xác thịt nữa và cũng không phải là con người xã hội, mà phải vui phải buồn với cái xã hội của mình, mà phải hoà mình vào với thiên nhiên...Và tôi nghĩ rằng âm nhạc bao giờ nó cũng khởi sự bằng nhạc tâm linh cả...

cũng như tất cả những nhạc sĩ khác, tôi cũng có những bản nhạc cho tình yêu. Vê tình yêu thì nó hơi khác với những người khác ở chỗ tính chất nhạc tình của tôi khác nhạc của ông Dương Thiệu Tước, hay là của ông đặng Thế Phong, hay là của ông Trịnh Công Sơn...Nếu chúng ta nghe những loại nhạc tình của ông đặng Thế Phong, hay của ông Lê Thương, hay của ông Văn Cao thì đó là những tổ sư lãng mạn ở trong thời kỳ rất đẹp của tân nhạc lúc đó...Bên người tình nhân yêu nhau thì phải có mùa thu mới yêu nhau được. Thế cho nên hồi mới, ra toàn là những bài ca mùa thu : ‘Giọt Mưa Thu’, rồi thì ‘Con Thuyền Không Bến’, rồi thì ‘Thu Trên đảo Kinh Châu’ , còn ông Văn Cao thì ‘Thu Cô Liêu’, rồi ‘Buồn Tàn Thu’...

Thời kỳ đó là thời kỳ lãng mạn. Thật ra tôi cũng có những bài lãng mạn chứ không phải là không...

Lúc bấy giờ tôi tách được ra, là tôi làm loại nhạc không còn lãng mạn nữa mà nó là tình cảm. Tôi khởi sự với những bài : ‘Tìm Nhau’,‘Kiếp Nào Có Yêu Nhau’, rồi ‘Cho Nhau’ rồi thì ‘đừng Xa Nhau’....đôi tình nhân yêu nhau không cần phải mùa thu, không cần phải con đò, ao lạnh hay trên cái hồ xưa gì cả ! Mà hai người yêu nhau thì chỉ có người nam với người nữ yêu thôi.

‘...Ngày đó em đi nhẹ vào đời ’, anh ra sao, em ra sao, chỉ có hai người ấy thôi thì tôi gọi đó là nhạc tình cảm.

Về sau này cũng có một số những anh em khác cũng đi vào cái con đường đó, có thể còn hay hơn nhạc của tôi cơ, nhưng mà dù sao tôi là người đi đầu.

Những người đi sau, ví dụ như Ngô Thụy Miên chẳng hạn, với loại nhạc mà theo tôi, gần với Phạm Duy nhất, chứ không có tính chất lãng mạn nữa, ví dụ như bài mà tôi rất thích có lời như ‘rồi mai tôi dưa em đến cuối cuộc tình’ gì đó, phải không ?Nó gần gủi với nhạc tôi lắm .

Hơn nữa, có thể thấy rõ rằng là về sau, nhạc tình của ông Trịnh Công Sơn thì nó không có tình cảm, mà nó cũng không có lãng mạn... Tôi gọi đó là nhạc ‘não tình. Nó cũng không vào tim mà cũng không vào đầu ; nó đánh vào cái não của mình. Vì cái đời sống lúc đó nó não nề quá. Hay nhạc của ông Lê Uyên Phương chẳng hạn thì nó cũng không giống những người khác, tức là nó ‘dục tính’, nó xưng tụng cái tình dục như ‘Vũng Lầy Của Chúng Ta’, đại khái như vậy ! Nghe nhạc Lê Uyên Phương thấy nó khác nhạc Phạm Duy, nó lại càng khác nhạc của đặng Thế Phong, là ở chỗ nó xưng tụng cái dục tình.

Còn cái đời sống của ông Văn Cao trong nhạc tình thì còn tuyệt vời hơn..Nếu cần phải biết là nhạc của tôi khác với nhạc của những người khác về phương diện nhạc tình ra sao, thì hôm nay tôi mạo muội đưa ra vài ba nhận xét nhỏ như vậy...

Ngoài những cái khía cạnh nội dung như vậy, xét đến cái phương diện hình thức, phải công nhận rằng lúc đó nhạc tình của những người như ông Văn Cao, ông đặng Thế Phong hay như của Lê Yên, của ông Dương Thiệu Tước hay là ông Thẩm Oánh chẳng hạn, không phát triển mạnh mẽ về phương diện nhạc tính, phương diện nhạc điệu. Gần như ở trường hợp là hãy còn bình dị quá. Thí dụ như nhạc tình của ông Văn Cao thì đại đa số chỉ nằm trong cái âm giai ‘Ré mineur’ (Cn) chẳng hạn, hay trong một cái khuôn khổ 32 ‘mesures’.

Nhưng dù sao ông ấy cũng có hai tác phẩm tuyệt vời là ‘Trương Chi’, với ‘Thiên Thai’, hai tác phẩm lớn. Nhưng dù sao đi chăng nữa, nhạc ngữ của ông ấy cũng không được phong phú như chúng ta mong muốn.

Riêng tôi, thì tôi cũng mừng về cái loại nhạc tình cảm đó, nó cũng đi từ những chỗ hết sức giản dị cho đến những chỗ hơi cầu kỳ một chút xíu. đó là lẽ tất nhiên vì nghệ sĩ mà không sáng tạo thì đứng một chỗ, tức là lùi.

Từ cái bài nhạc tình nhỏ nhen của tôi là ‘đừng Xa Nhau’ khi chuyển sang bài ‘đường Chiều Lá Rụng’, thì về nhạc ngữ có thể có một cái sự khác nhau, chứ không nằm trong nhạc ngữ bình dị nữa.

Phạm Duy


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Lam Phương

trả lời nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn
(trích từ vidéo 40 Năm âm Nhạc Lam Phương
Thúy Nga Paris thực hiện năm )

Khởi viết, vào lúc 12, 13 tuổi. lúc tôi học nhạc chưa có trường Quốc Gia âm Nhạc vì vậy, tôi mới tìm những ông thầy dạy riêng tư để mà học. Trong đó, ông dạy đầu tiên cho tôi hiện tỵ nạn tại âu Châu; người thứ hai là một nhạc sĩ sáng tác nổi tiếng, đang ở lại quê nhà, Tôi xin gởi tất cả lòng tri ân của tôi đến hai vị giáo sư đó.

Trong bốn thập niên vừa qua, nếu tổng kết, tôi sáng tác khoảng 200 bài. Nếu đem 200 bài đó chia đều cho 40 năm thì cũng không có bao nhiêu. Có bài ở Việt Nam không được phổ biến, nhưng qua đến hải ngoại các bài đó được hưởng ứng nồng nhiệt.

Trong thời gian những năm thanh bình của đất nước, bài nhạc ‘Rừng Khuya’ tôi viết cho các anh hướng đạo sinh đốt lửa trại để khiêu vũ. Và bài thứ hai là bài ‘Ngày Tạm Biệt’để hát trong dịp bãi trường. Nhạc tiêu biểu nhất trong thời gian này là bài ‘Khúc Ca Ngày Mùa’và ‘Trăng Thanh Bình’.

Tôi nhớ rõ vào năm 1944, ngày quân đội Pháp trở lại chiếm miền Nam, lúc đó tôi được 7 tuổi, theo mẹ để tản cư về miền đồng quê, khoảng 10 cây số. Thời gian tản cư đó tôi mới nhìn được cánh đồng quê thực sự, như cảnh gặt lúa, cảnh cấy lúa, cảnh giả gạo. Những hình ảnh đó theo đuổi trong trí tôi đến 10 năm sau. Năm 17, tôi mới đem những hình ảnh đó ghi vào nét nhạc; và tôi mượn một điệu nhạc lúc đó được phổ biến rộng rãi là Rumba manbo gọi nôm là dân ca manbo. Bài ‘Khúc Ca Ngày Mùa’là bài khởi đầu loại nhạc manbo đó.

Tôi nghĩ rằng, dù sinh trưởng trong phần đất nào của nước Việt Nam, tất cả cũng là người Việt Nam, cùng một giống nòi, cùng một tiếng nói. Dù chưa một lần tôi được nhìn phố phường Hà Nội, tôi cũng coi sự mất mát của đồng bào miền Bắc như sự mất mát của chính bản thân tôi. Năm 1954, tôi đã khóc sự chia cắt của đất nước Việt Nam, của đồng bào miền Bắc vào Nam sinh sống, trong đó có anh. 21 năm sau, chính anh đã khóc lại cho sự sụp đổ miền Nam, anh đã khóc cho cả triệu đồng bào miền Nam ra đi, trong đó có tôi. Vì vậy, chúng ta mới có ‘Tình Cố đô’, ‘Sầu Ly Hương’, Cõi đêm’. ‘Nước đục’, ‘Ngày Buồn Rồi Cũng Qua Mau’ vv...

Tôi viết bài ‘Kiếp Nghèo’ trong hoàn cảnh hoàn toàn thật của tôi lúc đó. Viét bằng rung động chân thành, và lần đầu tiên tôi viết bài ‘Kiếp Nghèo’bằng những giòng nước mắt...Lúc đó tôi còn trẻ lắm, khoảng 1954, sau khi tôi bán được bài ‘Trăng Thanh Bình’đầu năm 53, tôi để dành được một số tiền. Tôi mua một chiếc xe đạp để di chuyển trong lúc đi học.....

Nhà tôi ở Dakao. Thường thường muốn về Dakao phải đi qua con đường Phan Thanh Giản. Con đường Phan Thanh Giản cây cối um tùm. Khoảng ngang trường Gia Long không có một căn nhà nào...đêm đó, tôi chẳng may gặp một trận mưa rất to, không có nơi để trú mưa, đành phải đi dưới mưa để tìm ‘thú đau thương’. Gần tới nhà phải qua một cầu ván gập ghềnh. Về tới nhà mưa to quá, nên cái bàn tôi ngồi học bài ướt hết, tạo cho tôi cảm xúc, từ đó ‘Kiếp Nghèo’ra đời.

Vào những năm 58, 59 và 60 miền Nam bắt đầu nhen nhúm chiến tranh trở lại, kéo dài cho đến Tết Mậu Thân 68, mùa hè đỏ lửa 72 và đến ngày sụp đổ miền Nam, năm 1975, tôi nghĩ rằng tất cả thanh niên chúng ta, trong mỗi gia đình, đều có một người trong quân đội. Tôi may mắn được ở hậu phương an toàn. Trái tim tôi luôn luôn gởi về chiến tuyến. Tôi theo dõi những bước chân oai hùng của các anh chiến sĩ. Tôi thương anh chiến sĩ, vì lẽ đó mà tôi đã viết khoảng 40 bài cho các anh chiến sĩ đó, như những bài ‘Tình Anh Lính Chiến’, Chiều Hành Quân’, là những bài tới giờ phút này vẫn còn thâu đi thâu lại trong các băng nhạc.

Chủ đề...Dù tôi viết nhiều loại . Nhưng tôi nghĩ Tình là đề tài muôn thuở của những nhạc sĩ sáng tác. Tình càng đau đớn, người ta càng dễ nhớ. Tôi cũng không thoát khỏi định luật đó.

Thường thường tôi viết nhạc theo biến chuyển tình cảm riêng tư của đời mình. Bài nhạc tôi viết cho một người mà tôi chưa biết mặt, chưa bao giờ nghe hát. Tôi chỉ nhìn một chân dung nho nhỏ và một mẩu tin ở trên báo, đã gây một xúc động mạnh để viết bài nhạc đó. Ca sĩ đó thành công trọn vẹn trong bài đó. Chính là người gây nguồn cảm hứng là nữ ca sĩ Họa Mi ( nhạc phẩm Em đi).

Trước 1975, tôi đã từng viết loại nhạc như ‘Chờ Người’, ‘Trăm Nhớ Ngàn Thương’. Lúc đó vì nhu cầu hảng dĩa, băng và chính nhà xuất bản của tôi, buộc tôi phải viết loại nhạc đại chúng. Sau 75, thì tôi viết cho mình trong đó có ‘Cho Em Quên Tuổi Ngọc’, Bão Nắng, Như Giấc Chiêm Bao’vv....

Lam Phương


--------------------------------------------------------------------------------

Nhạc sĩ Phan Văn Hưng

trả lời nhá báo Từ Nhân
( nguyệt san Canh Tân 12 tháng 6-1991)

Phải thú thật , tôi chưa bao giờ đi học một trường nhạc. âm nhạc đến với tôi rất tự nhiên. Vì thích nhạc, tôi tự học tây ban cầm, mãi sau này mới đi học thêm về lý thuyết hòa âm. Nếu hỏi sáng tác thế nào, tôi không biết trả lời làm sao !

Sáng tác đối với tôi là cầm cây đàn lên và hát. Hôm nào hát ra một bài nghe được thì gọi là sáng tác. Sáng tác là bắt được một số âm hưởng tự nó đã có sẵn tự ngàn xưa. Mình chỉ là một trung gian diễn tả nó qua bàn tay và cây đàn của mình. Lấy hình ảnh như sau : ngoài bãi biển có vô số hòn đá. Người nghệ sĩ nhặt về đem trưng trong nhà. Khách đến nhà khen đẹp. Người nghệ sĩ đáp : ‘đá ở ngoài biển, không thuộc về tôi, không do tôi làm ra, công duy nhất là đứng ở đó, lúc đó và nhặt đem về’.

Nói về hòa âm thì hoà âm và sáng tác là một, là cùng một tiến trình. Khi sáng tác một bài nhạc là đã nghe ra phần hòa âm. Một bản nhạc không thể nào tách rời với phần hòa âm bởi vì cùng một bài nhạc, nếu hòa âm khác đi hoặc giả đổi nhịp sẽ đổi thành một bản nhạc khác. Trong băng nhạc ‘Trái Tim Tôi Là Bến’, tôi dùng tây ban cầm, đàn tranh, măng đô-lin và synthesizer trong phần hòa âm. Synthesizer có thể nhại tiếng đàn vĩ cầm (viola), hồ cầm (violoncello), sáo, trống sấm (timpant) vv...Tôi cố gắng sao cho mỗi bài có nét đặc sắc của nó, cần phong phú nhưng hòa âm cũng cần được thống nhất, nhạc diễn tả sát ý lời và các đoạn được liên hợp nhau không rời rạc. Tuy dùng nhiều khí cụ tây phương, tôi cố không đi quá trớn sao cho giữ được âm huởng và tinh thần Việt Nam.

Nhạc cổ truyền Việt nam không có hoà âm (harmonie), chỉ có giai điệu (mélodie) mà thôi. Nói như vậy, khi chúng ta chơi một hợp âm thì không còn là nhạc Việt Nam nữa sao? Nhưng tôi không nghĩ rằng có một kỹ thuật để làm nhạc Việt Nam, không phải cứ dùng ngũ cung là thành nhạc Việt Nam. Không phải cứ dùng những hoà âm đặc biệt mới lạ là biến thành nhạc ngoại quốc. Có những bài tân nhạc dùng hoà âm tây phương mà người nghe lại cảm thấy rất là Việt Nam, như Hội Trùng Dương của Phạm đình Chương hay Tiếng Sáo Thiên Thai của Phạm Duy. Ngược lại, có những bài đàn tranh, đàn tỳ, người Việt ta không cảm thông được thì cho đó là nhạc Tàu ! Có thuyết cho rằng muốn có âm hưởng Việt Nam, câu nhạc cần nhiều nốt láy ngân dài, giống như trong dân ca. Lại có người bảo đặc tính nhạc Việt là lời lẽ có nhiều tính chất thơ, không bao giờ lộ liễu và cộc lốc như trong một số bài nhạc sau này. Những nhận xét này đều đúng, tôi nghĩ, người nhạc sĩ trong lúc sáng tác không đặt vấn đề quy luật. Miễn mỗi nhạc phẩm phản ảnh tâm hồn mình là được . Vả lại, tiêu chuẩn ‘Việt Nam tính’ không do nhạc sĩ mà do người nghe phẩm định bằng lỗ tai của mình. Khi một bản nhạc đi quá mức độ chấp nhận của người Việt Nam bình thường thì có thể bị gọi là lai căng .

Theo tôi, đàn synthesizer là một phương tiện qúy báu để quảng bá âm nhạc. Thời nay synthesizer giúp cho người chơi nhạc tài tử biến thành nhạc trưởng mà không cần phải mất nhiều năm công phu tập nhiều khí cụ khác nhau, giúp cho âm nhạc dễ phổ biến rộng rãi. Với synthesizer, chúng ta không cần phát triển kỹ thuật chơi nhạc mà phát triển tai nghe nhạc và cách hoà âm.

Tôi có một ý nghĩ như thế này. Con người phát triển tuần tự trên ba mặt thể xác, tình

cảm và trí. Nhạc là một khía cạnh của sự phát triển này.Các nhạc khí kích tiết(instruments à percusion) như trống, chũm chọe tương ứng với giai đoạn phát triển của xác thân. Các nhạc khí thổi (instruments à vent) như sáo, tiêu, kèn tương ứng với giai đoạn phát triển tình cảm. Tùy theo hơi thở, các nhạc cụ này có thể tạo ra những âm thanh khi mạnh, khi nhẹ , khi réo rắt, lúc khoan thai, uốn éo, trầm bỗng thay đổi giống như tình cảm con người nhiều sắc thái và dễ đổi thasy. Các loại đàn dây (instruments à cordes) như vĩ cầm, hồ cầm, dương cầm vv..tương ứng với giai đoạn phát triển về trí của nhân loại vì tiếng đàn dây lúc nào cũng đều hơn, phản ảnh đặc tính chừng mực, tiết độ hơn của cái trí.

Phan Văn Hưng


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ đức Huy

1.
trả lời nhà báo Trường Kỳ
(Tuyển tập Nghệ Sĩ 1 & 3 xuất bản năm 1995, 1998)

Mê nhạc từ hồi nhỏ, ngay từ khi ông anh họ là nhạc sĩ Nguyễn Vũ dạy cho đánh mandoline, sau đó là guitar. Hoàn toàn do mình tự khuyến khích lấy mình từ đầu cho đến giờ, tuy nhiên lúc đầu có gặp nhiều trở ngại từ gia đình

Tự học theo sách và ‘rèn tai’từ 1963 tới 1975. Sang Mỹ học SF City College một năm về nhạc và căn bản hòa âm. Cũng nhận được sự giúp đỡ chút ít nơi bạn bè; sự giúp đỡ nhiều nhất là nơi những bạn ngoại quốc.

Nguồn cảm hứng...đến từ sự tổng hợp giữa niềm tuyệt vọng, nỗi đau khổ, những kỷ niệm, sự vui thú, lòng khát vọng, lòng yêu thiên nhiên, quê hương vv... Thí dụ như niềm tuyệt vọng (Trái Tim Ngục Tù), nỗi đau khổ (Như đã Dấu Yêu), lòng khát vọng (Một Tình Yêu), những kỷ niệm (Người Tình Trăm Năm ), lòng yêu quê hương (Khóc Một Giòng Sông) vv...

(Với khuynh hướng) ...Viết cho tuổi trẻ để nói lên những ưu tư, khát vọng, dự tính cũng như những khó khăn. Viết cho tình yêu với niềm hy vọng của chính bản thân, của đôi lứa, gia đình, quê hương, thiên nhiên và thượng đế. Một đôi khi cũng nhắm vào một giọng ca nào đó khi sáng tác, thí dụ như nhạc phẩm Thái Tim Ngục Tù cho Thảo My trình bày và do trung tân Asia thu băng.

Khi viết nhạc, áp dụng tất cả những phương thức gì giúp ích được cho mình trong lúc đó. Phải thay đổi thể điệu luôn để tránh nhàm chán hoặc lặp lại chính mình khi sáng tác.

...Một bài hát muốn dễ vào tai người nghe thì trước hết nó phải giản dị, không có cầu kỳ quá...tại vì cuộc sống của chúng ta không có nhiều thì giờ để nghe những truyện cầu kỳ...Nếu muốn giản dị mà dễ nhớ thì phải có một cái ‘melody’ dễ nhớ và một chủ đề mà chắc quanh quẩn chỉ là tình yêu thôi, đến 98 phần trăm là tình yêu, cò 2 phần trăm là những chủ đề khác...Trong 98 phần trăm tình yêu thì làm sao cũng nói một vấn đề nhưng dùng những từ mà chưa có ai dùng, đừng có dùng những cái ‘ clichés’...rồi ...thì..bởi vì mình chỉ có ba phút để lấy được sự chú ý của người nghe, thành ra nó phải thật là gẫy gọn, tức là không dư chữ nào, đừng có nên thiếu một chữ nào...Nếu có thể làm dược những điều đó thì sẽ ăn khách, thế thôi ! Khách Việt Nam tương đối cũng dễ...

Lời ca phải rất là giản dị, bình dị cho người ta dễ hiểu. Thế nhưng cũng tùy là cái người viết bây giờ muốn ‘đánh’vào thành phần khán giả của mình, thuộc nhóm nào mới được, anh thấy không ? Nếu bây giờ anh muốn ‘đánh’ vào đại đa số khán giả tức là những người thích nghe nhạc bình dân đó, mà anh dùng những điển cố, hán văn nhiều hoặc dùng những danh từ về triết học tây phương cao siêu quá người ta sẽ không hiểu...và đồng thời nếu anh muốn viết nhạc cho giới trí thức, như sinh viên hoặc là giới ‘ yuppy’ mà anh lại dùng những từ quá bình dân thì họ lại không cảm thấy gần gũi...cho nên anh phải dùng cái ngôn ngữ mà không có ai họ cảm thấy bị gán cái bảng hiệu đó (như ‘bình dân’hoặc ‘trí thức’)...tức là nghe qua họ cũng tưởng là cái bài này viết riêng cho mình.

Nhạc bình dân, theo tôi nghĩ, có nghĩa là nhạc mà được đại đa số khán giả chiếu cố đến. Nhạc bình dân của Mỹ là nhạc ‘Country music’, còn nhạc bình dân của Việt Nam là những bài hát vọng cổ hoặc những bài hát tân nhạc mà thường theo tôi nghĩ có đến 90 phần trăm là boléro...Boléro và những ‘ton’thứ và những cái ‘gammes’thứ...và cái ngôn ngữ của nó cũng rất giản dị...đó là cái nhận xét của tôi thôi, có thể là tôi sai, tại vì tôi không có nghiên cứu về từ chuyên môn mà người ta dùng để diễn tả nhạc Việt Nam, thành ra có thể là tôi không đúng...thế nhưng mà tôi nghĩ là tôi cũng khó sai lầm ! Ba chục năm trong nghề rồi !

...Nhạc của tôi có người nói là có thể thỏa mãn khách từ 9 tuổi đến 90 tuổi...tôi thấy cũng tùy bài thôi...Nhưng mà đa số thì tôi có thể nói là nhạc của tôi có thể..à à...tùy lúc có thể làm vừa lòng khán giả từ 17 đến 57 thì là chắc ăn...

Lời ca của tôi có tầm quan trọng đến 90 phần trăm trong một nhạc phẩm...Người nào viết nhạc mà chưa nhận thức được điều đó thì sẽ còn mệt lắm ! Anh nên nhớ là nhạc Việt Nam không phải là như nhạc Mỹ. Người Mỹ có nhạc Jazz, nhạc hòa tấu, nhạc Classical, là những nhạc không có lời mà được mọi người yêu mến vì người ta đã theo truyền thống đó rồi. Còn Việt Nam mình không có những loại nhạc đó. Nếu có nhạc hòa tấu chăng thì cũng là những lúc đệm để ca sĩ nghỉ thôi. Thành ra cái lời phải rất quan trọng..Khi cái lời nó hay rồi thì nhạc sẽ tự động đến. Khi tôi làm nhạc tôi phải ‘make sure’là không giống bất cứ ai, kể cả những gì mà tôi đã viết.

Thói quen...Ngày, đêm, thức, ngủ...nhiều kết quả khi được một mình trong im lặng.


--------------------------------------------------------------------------------

2.
trả lời nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn
(qua vidéo Thúy Nga Paris số 50)

(Về diễn tiến và thời gian sáng tác) :

Cái đó (sự sửa đi, sửa lại) không phải là một lề thói mà là một khúc mắc, tôi chưa giải quyết được, bởi vì tôi thường viết 4, 5 bài hát trong cùng một lúc, đến chỗ nào tôi cảm thấy hơi khựng lại, thì tôi để sang một bên, viết tiếp bài khác. Cho đến khi nào viết xong một bài mà tôi nghĩ là tạm xong, thì cho qua một thời gian thử thách. Tôi hát đi hát lại nhiều lần trong vòng 3 cho đến 6 tháng, và sau khi hát, tôi cảm thấy như là không còn điều nhỏ đáng sửa nào mà tôi bỏ qua, thì tôi mới dám đưa ra. Như anh anh đã nói, có những bài 4, 5 năm mới hoàn tất, nhưng cũng có bài mà 25 năm tôi viết đi viết lại, và sau cùng vẫn phải giữ y như thế, không thay đổi gì được cả. Bài đó là bài Vườn địa đàng , cùng thời với bài Cơn Mưa Phùn.

(về bố cục)

Cái điều mà anh tìm thấy ở trong bài Bay đi Cánh Chim Biển, cũng không có gì mới lạ. Bởi vì người ta đã tìm thấy những hình thức tương tự ngay ở nhạc cổ điển. Tức là cái dạo khúc, phần đầu thì tôi cũng viết ra như một bài hát riêng một khúc. Rồi đến cái phiên khúc, cũng như cái điệp khúc, cũng như cái chuyển khúc đã được soạn trước.

(về sự rung động với thiên nhiên)

Tôi thấy là trong cuộc sống này, mình không thể nào tách ra khỏi yếu tố thiên nhiên. Mặc dù đã có một số người nói ‘Nhạc đức Huy mưa từ đầu đến cuối’, thế nhưng mà thường thường trong những ngày mưa tôi mới được ở nhà, có nhiều dịp để viết, thành ra không tránh khỏi ảnh hưởng những thời điểm, hoàn cảnh thiên nhiên xảy ra chung quanh...

(về những bài hát thương mại)

Sau một thời gian viết những bài hát cho riêng chính mình, cho những cảm xúc và ý riêng, cuối năm 1989, tôi có dịp nói chuyện với một anh chị em , cũng nghệ sĩ sáng tác ở niềm Nam Cali, đã nói đến và bàn đến những yếu tố để cho một bài hát trở nên rất phổ biến, ăn khách về phương diện thương mại. Thường thường những bài hát Việt Nam phải hội đủ những điều kiện như là : điệu Slow Rock, Cha cha, Boston., thường thường những bài thành công ở cung thứ và nhất là lời lẽ phải vì một chữ tình éo le. Và sau một tuần, bài Như đã Dấu Yêu ra đời, như một thử nghiệm.

(về ca khúc Một Giòng Sông)

Bài này tôi viết lên cảm hứng từ những người bạn của tôi . Lúc đó vào khoảng 1985, tôi có một số bạn bè từ Việt Nam sang. Và những người này có một hoàn cảnh rất giống nhau là họ sang đây một mình, họ xa gia đình, thành ra tôi đã viết lên Một Giòng Sông để diễn tả lại tâm trạng đó của một số đông tị nạn.

(về bài đầu tay)

Bài Cơn Mưa Phùn, đã được lấy hứng từ một cuộc đi chơi ở đà Lạt, khoảng giữa năm 1969, là lúc thời gian tôi mới lên đại học và như anh đã biết, đà Lạt thường mưa, mưa nhiều, và trời u ám, lúc đó tôi lại mới lớn lên, thành ra rất nhiều mơ mộng

(về nét đặc thù)

Có lẽ cái nét giản dị của nhạc và lời; cũng như cái điểm nói thẳng về vấn đề. Và thêm một điểm nữa mà tôi nghĩ, có lẽ vì đa số đều có chủ đề nằm ngay ở tựa bài hát

đức Huy


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc Sĩ Từ Công Phụng

trả lời nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ sĩ 1 xuất bản năm 1995)

Vì đam mê âm nhạc nên tìm đủ mọi cách để tự học. Họ theo sách từ Pháp gởi về, Nghe nhạc, tự xướng âm một mình. Nói tóm lại, một mình tự mò mẫm để đi tới.

Khởi viết vào năm 1960, do ngẫu hứng và thích thú. Nhạc phẩm đầu tay: ‘Bây Giờ Tháng Mấy’. đứa con đầu lòng bao giờ cũng ngây ngô, lãng mạn và chân chất, nhưng lúc nào cũng yêu vì ‘Bây Giờ Tháng Mấy’ là nhịp cầu đầu tiên đưa tên tuổi tôi đến với quần chúng.

Những sáng tác thường phát xuất từ tâm tư, sự suy nghĩ và cuối cùng là khát vọng đạt tới. Tôi ‘open’chỗn này, muốn hiểu sao cũng được.

Tôi viết nhiều hơn số lượng đã ấn loát. Có những bài lâu quá tôi không nhớ hết, hoặc những bài gần đây không ưng ý lắm, tôi đã bỏ đi. Khi tôi quyết định cho in vào các tuyển tập là những sáng tác mà tôi ưng ý. Những bài nào được quần chúng ưa thích là những bài tôi ưng ý. ưng ý nhất hiện nay là các bản : Trên Ngọn Tình Sầu, Giọt Lệ Cho Ngàn Sau, ơn Em, Mắt Lệ Cho Người Tình. Hiện nay tôi có 3 tuyển tập nhạc, được sáng tác dài dài từ 3 thập niên qua :

- Thập niên 60: Tình Khúc Từ Công Phụng, gồm 12 tình khúc; có các bài Bây Giờ Tháng Mấy, Mùa Thu Mây Ngàn, Lời Cuối, Tuổi Xa Người, Mùa Xuân Trên đỉnh Bình Yên...được nhiều ca sĩ trình bày nhất.

- Thập niên 70 : Trên Ngọn Tình Sầu, được trình bày nhiều nhất là bài Giọt Lệ Cho Ngàn Sau.

- Thập niên 80 : Giữ đời Cho Nhau, Như Chiếc Que Diêm được trình bày nhiều nhất.

Viết nhạc trước hoặc song song với việc đặt lời. Tôi thích diễn tả bằng lời hơn là gò bó vào thể điệu nhanh ; viết bất cứ lúc nào. Tôi thích viết nhạc tình hơn những loại nhạc khác, vì tình ca vẫn là đê tài muôn thuở của nhân loại. ít khi tôi nhắm vào một giọng ca nào trước khi sáng tác vì tôi luôn luôn sáng tác vì cảm hứng, không vì đặt hàng...

Từ Công Phụng


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên

mạn đàm cùng nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn
(vidéo Thúy Nga Paris 38 : Tình ca Ngô Thụy Miên)

Tôi sáng tác nhạc từ khi còn rất trẻ, những ngày tôi còn theo học trường Quốc Gia âm Nhạc, có lẽ vì thế, những nhạc phẩm đầu tay của tôi đã chịu ảnh hưởng nhạc cổ điển tây phương rất nhiều. Cho đến năm 1965, tôi bắt đầu chuyển hướng, và từ đó những tình khúc Ngô Thụy Miên được ra đời. Như vậy, bài ‘Mùa Thu Cho Em’ không phải là nhạc phẩm đầu tay của tôi. Nhưng đó là bài tình ca đầu tiên được thu dĩa, bài đầu tiên đã mang tên tuổi Ngô Thụy Miên đến qúi vị khán, thính giả.

Tất cả những bản nhạc trong cuốn Tình Ca Ngô Thụy Miên đã được tôi viết từ năm 1965 đến năm 1972. Bản nhạc đầu tiên được hoàn tất trong năm 65 là bản ‘Chiều Nay Không Có Em’ và bản cuối cùng, tôi viết trong năm 72 là bản ‘Mắt Biếc’.

‘Giáng Ngọc’ chỉ là cái tên tôi đặt cho một người con gái có thực. Cô có một vẽ đẹp lãng mạn, kiêu sa, và ngày đó cô là một nữ sinh của một trường trung học nổi tiếng ở Sàigòn. Còn tôi là một anh sinh viên lang thang ở trường đại học. Cô là nguồn cảm hứng cho tôi viết bài ‘Dấu Tình Sầu’và dĩ nhiên bài ‘Giáng Ngọc’.

‘Từ Giọng Hát Em’ là một trong những bản nhạc mà tôi thích nhất. Một bản nhạc, tôi đã bỏ ra rất nhiều công phu, cũng như thì giờ để viết, trau chuốt từ lời ca đến ý nhạc. Bản nhạc, như anh nhận xét có mang một chút âm hưởng nhạc cổ điển tây phương, là bởi vì tôi xử dụng vài hợp âm giống như những bài aria, tức là những bài nhạc đạo của Bach,

Mỗi một nhạc sĩ, thưa anh, có một phương cách riêng biệt để viết về tình yêu. Với tôi, anh nghe trong nhạc của tôi cũng thấy, cũng có những chia lìa, tan vỡ. Nhưng với tôi, tình yêu luôn luôn trong sáng và nhẹ nhàng. Tuy nhiên không phải vì thế mà cuộc sống tình cảm của tôi bằng phẳng như anh nghĩ đâu, cũng gập ghềnh vất vả lắm anh ạ.

Giữa thi sĩ Nguyên Sa và nhạc sĩ Ngô Thụy Miên không hề có liên hệ nào ngoài sự cảm thông giữa hai con người cùng yêu nghệ thuật. Nhà thơ Nguyên Sa là một trong những nhà thơ có những bài thơ tình mà tôi ưa thích nhất. Và kể từ ngày tôi quen biết anh (NS) ở Sàigòn cho đến bây giờ thì trong nhạc của tôi, thơ của anh luôn luôn có chỗ đứng rất đặc biệt.

Và tôi rất đồng ý với anh (N.N.N) là Sàigòn của chúng ta, không phải chỉ có một Nguyên Sa. Chúng ta còn rất nhiều những nhà thơ nổi tiếng khác đã viết những bài thơ tình rất tuyệt vời. Nhưng cho đến bây giờ, thì hình như nhạc Ngô Thụy Miên chỉ có duyên với thơ Nguyên Sa thôi. Và nhờ cái duyên này, mà tôi có được áo Lụa Hà đông, Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi 13....

‘Trong thời gian đi học, thơ của Nguyên Sa mình đọc nhiều nhất, ngâm nhiều nhất thành ra nó đã thấm vào hồn mình...Trong tất cả 4 thập niên viết nhạc của tôi thì thơ của ông ấy lúc nào cũng bàng bạc ở trong dòng nhạc của tôi’(tuyển tập Nghệ sĩ 5-Trường Kỳ).’

Mặc dù tôi học violon từ bé, nhưng hầu hết tất cả những bản nhạc của tôi thì đã được viết bằng đàn piano, bởi vì, thưa anh, đàn violon là một nhạc cụ rất khó xử dụng, nhất là khi dùng để sáng tác nhạc. Thật sự là tôi không biết là gần đây có những nhạc sĩ nào đã dùng violon để sáng tác hay không.

Vời tôi, chiến tranh chỉ là giai đoạn. Tình yêu mới là vĩnh cửu. Từ khi bắt đầu viết nhạc, tôi đã chọn cho mình một hướng đi, đó là tình ca. Và trước tôi cũng như sau tôi đã có nhiều nhạc sĩ viết về chiến tranh, về quê hương, về thân phận vv..Tất cả chúng tôi đều đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, mỗi người một khuynh hướng khác nhau. Tôi chỉ xin được nhớ đến như một người viết Tình Ca không hơn không kém.

Tôi không viết nhạc để sống, mà tôi sống để viết nhạc....Nếu đời hay người chia sẻ được với tôi thì đó là một niềm vui. Lẽ dĩ nhiên tôi viết cho mình và cho đối tượng của mình nữa, nhưng tôi không viết cho mọi người (T.T.N.S 5- Trường Kỳ)

Ngô Thụy Miên


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc Sĩ Lê Dinh

trả lời nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ sĩ 1 xuất bản năm 1995)

Rất thích âm nhạc. Học hàm thụ với trường Ecole universelle de Paris (Pháp). Không ai khuyến khích lúc ban đầu nhưng không gặp trở ngại nào lớn lao...Bắt đầu sáng tác năm 1956. Nhạc phẩm đầu tay ‘Làng Anh Làng Em’(Tinh Hoa xuất bản) , cho đến bây giờ vẫn còn hài lòng với nhạc phẩm đó. Những nhạc phẩm hài lòng nhất : Tấm ảnh Ngày Xưa (1964), Tình Yêu Trả Lại Trăng Sao (1964), Cánh Thiệp Hồng (1963), Xác Pháo Nhà Ai (1963), Ngang Trái (1962), Ga Chiều (1961), Thương Về Xứ Thượng (1961), Một Chuyến Xe Hoa (1971), Biển Dâu (1971), Nỗi Buốn Châu Pha (1974)...

Không có chủ trương hoặc một khuynh hướng nào đề ra trong việc sáng tác. đôi khi có nhắm vào một giọng ca nào đó để sáng tác, như trường hợp bài ‘Tiếng Ca U Hoài’viết cho Thanh Thúy hát.

Nguồn cảm hứng sáng tác thường đến bất chợt, từ kỷ niệm, từ một quyển sách, từ một bài thơ, từ hoàn cảnh của bạn bè...Thường cảm hứng sáng tác khi lái xe đến sở làm hoặc lúc ban đêm (chỉ cần một tách trà sữa nóng )...Thường sáng tác nhạc song song với lời ca , một câu nhạc là một câu lời. Sáng tác đủ mọi thể điệu, nhưng thích Boléro và Tango.Chiều hướng sáng tác không bị ảnh hưởng ai....Những giọng ca thích hợp có thể kể : Thanh Thúy, Hoàng Oanh, Thanh Tuyền, Trang Mỹ Dung.

Lê Dinh



--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Tuấn Khanh

tài liệu của nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ Sĩ 4 xuất bản năm 2000)

Tập tễnh sáng tác vào khoảng 53, 54, Thuở đó còn là thuở học trò, cứ làm ra rồi để đấy thôi, chưa có phương tiện để lăng xê, phổ biến, chưa có cái phương tiện đó mà cũng không nghĩ tới cái chuyện đó.

Ngày xưa khi tôi viết loại nhạc mà mình gọi là nhạc không được đại chúng, nói chung là loại nhạc viết cho một giới, thí dụ cho những người cầu kỳ thích nghe loại nhạc chọn lọc...thì tôi lấy tên là Tuấn Khanh. Còn một cái loại đại chúng, viết những bài đại chúng, thật là đại chúng, chúng không được chải chuốt lắm thì tôi đổi tên, tôi lấy tên Trần Kim Phú, rồi Kim Phú. Lý do là tại vì xấu hổ, cho là tại sao mình lại viết các loại nhạc này, nó bình dân, nó đại chúng, không phải là cái loại nhạc gọi là sang.

Nhưng sau 7 năm , sống dưới sự thay đổi của đất nước, vỡ ra nhiều điều, mình không có quyền làm như thế , Mình phải làm đủ, mình có thể làm được cái loại nào thì mình vẫn cứ phải làm. Cái này tuy rằng bạn nghe nó kỳ đấy, hay bạn không thích cái loại nhạc này nhưng có một số người khác người ta thích thì mình cũng phải đáp ứng đầy đủ cho nó công bình. Người ta không có tội tình gì cả, có khi chỉ có cái gia đình nghèo không được học nhiều để thành những người trí thức, mà bây giờ mình bỏ rơi người ta vì cái tội đó thì như là bất công quá ! mình không nên làm như thế.

Những tình cảm đến với cuộc sống riêng tư của một người nghệ sĩ thì mới tạo nên được những tác phẩm...

Sau 75, mỗi một năm cứ tết đến, đến đêm giao thừa, sáng mồng một thì tôi khai bút đầu năm. Tôi viết một câu nhạc, chỉ viết một câu nhạc thôi. Viết xong rồi nhẩm nhẩm hát lại thì thấy còn được, thấy mình hãy còn viết được chưa bị khô cằn, chưa bị rơi vào tình trạng không thể viết được nữa. Viết xong rồi thôi, tôi lại bỏ đi hết.

...Nếu còn sáng tác được thì phải có một cuộc sống riêng tư, phải được tự do trong cuộc sống riêng tư đó thì mới có thể sáng tác được.

Tôi cũng phải nói tới cái vấn đề là dù sao cũng cảm ơn gia đình. Gia đình tôi đã để cho tôi có hai cuộc sống riêng biệt : một cuộc sống trách nhiệm với gia đình và một cuộc sống riêng tư của tôi. Vì phải có những cuộc sống riêng tư, phải có những thời gian riêng tư, có những sự gặp gỡ quen thuộc riêng tư của mình thì mới có cái nhiên liệu để thôi thúc cho mình sáng tác được những nhạc phẩm có thể để đời được hoặc là được dài lâu... Còn nếu như sống mà suốt cuộc đời mình chỉ có trách nhiệm với gia đình, thì không biết người khác ra làm sao nhưng theo tôi rất là khó có các nhạc phẩm xuất sắc hoặc là hay để đưa tới cho quần chúng được

Tuấn Khanh



--------------------------------------------------------------------------------

Nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương

theo tài liệu của nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ Sĩ 5 xuất bản năm 2001)

Hồi đi học, là tôi đã thích, đã mê nhạc lắm rồi. Tôi nhớ lúc còn đang đi học, trong nhà có một cái radio cổ lỗ sĩ mà cứ ráng bắt cho được những đài Pháp á, đài Hirondelle ở Hà Nội...Nghe cứ ù ù mà thích lắm. Thời đó tôi mê loại nhạc thời danh của đoàn Chuẩn-Từ Linh , nghe được những bài ‘Tà áo Xanh’, ‘Dang Dở’hay ‘Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay’thú vị lắm. Thời ấy làm như mình bị thấm cái nhạc đó cho nên khi sáng tác, mình phải làm sao có cái ‘air’ nhạc cho nó như vậy.

Phạm Mạnh Cương tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Huế...dạy Việt văn, Sư địa và Triết học tại Sàigòn...kể từ năm 66 , Phạm mạnh Cương có thể coi như là một trong những người đã đưa việc thực hiện băng nhạc vào lãnh vực kinh doanh dưới nhãn hiệu Tú Quỳnh...Nhạc phẩm Thương Hoài Ngàn Năm là nhạc phẩm đầu tiên ông viết tại miền Nam ...Phía sau mỗi nhạc phẩm đều ghi dấu một kỷ niệm đã tạo nên nguồn cảm hứng, từ đó ông liên tiếp tung ra những ca khúc : Thung Lũng Hồng, Mắt Lệ Cho Người Tình, Tóc Em Chưa úa Nắng Hè....Tuy nơi PMC có hai con người khác biệt, một con người mô phạm, và một con người nghệ sĩ, nhưng ông không để cho hai sự tương phản đó xáo trộn hoạt động của mình...- Trường Kỳ)

Với tôi, tôi thu xếp đâu ra đó. Dạy học vẫn làm tròn bổn phận của một nhà giáo, còn nghệ sĩ thì hoạt động hoàn toàn là một nhạc sĩ...Có lẽ tôi mang một tính chất nhà giáo để qua hoạt động bên văn nghệ.....Tôi quan niệm, lời ca phải làm cho người ta cảm, chứ đừng viết một cách cao xa quá. Hình ảnh trong âm nhạc phải cụ thể, nhưng không phải cụ thể một cách tầm thường, nhưng là một cụ thể có thi vị...

Những bài như ‘Loài Hoa Không Tan Vỡ’, có gì triết lý trong đó đâu. ‘Thương Hoài Ngàn Năm’ có gì triết lý trong đó đâu, không có. Có một vài bài như bài ‘Mắt Lệ Cho Người Tình’thì cũng phong cảnh thôi, như bài ‘Tóc Em Chưa úa Nắng Hè’có thể dùng một vài chữ nó có văn chương, bóng bẫy chút vậy thôi, không phải danh từ triết’

...Mỗi nhạc phẩm là một bức tranh, Thí dụ như bài ‘Thung Lũng Hồng’tả thung lũng của đà Lạt, buổi sáng mặt trời lên đẹp lắm, sương và ánh nắng hồng chiếu. Rồi từ Thung Lũng Hồng đó tôi nghĩ tới đà Lạt có thung lũng gọi là Thung Lũng Tình Yêu...thường thường một nhạc sĩ nói về tình cảm dành cho một mối tình chẳng hạn thì làm một bài thôi. Một bài có dính líu đến mối tình đó. Còn đa số nghệ sĩ khi nào cũng có cái tưởng tượng phong phú. Nhiều người cô độc nhưng vẫn viết được nhạc tình yêu rất hay..

Phạm Mạnh Cương



--------------------------------------------------------------------------------

Nhạc sĩ Trúc Hồ

trả lời nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ sĩ 1 xuất bản năm 1995)

Bắt đầu sáng tác nhạc phẩm đầu tay ‘Giòng Sông Kỷ Niệm’ lúc 16 tuổi, khi mới biết yêu lần đầu ,và hiện vẫn hài lòng với nhạc phẩm đó ,vì đã khơi lại được một khoảng thời gian đầy thơ mộng và thú vị.

được rất nhiều khuyến khích nơi ba (nhạc sĩ Trúc Giang, xử dụng trống) là người dạy chơi trống từ khi mới lên 4.

Chỉ sáng tác tùy hứng, hoàn toàn không đề ra một khuynh hướng hay một chủ trương nào. Không nhắm đặc biệt vào một giọng ca nào cả, tuy nhiên về giọng ca nữ thì thấy thích hợp với những sáng tác của mình, về phía nam thì có Duy Quang.

Nguồn cảm hứng đến từ cuộc sống hằng ngày, từ những điều nhìn thấy được trong cuộc sống hoặc chính mình đã đóng một vai trò trong đó.

Không có thói quen nào đặc biệt. Việc sáng tác đến bất chợt và tự nhiên...Không nhất định là viết nhạc trước khi đặt lời, hoặc ngược lại. Thường viết những nhạc phẩm chậm và buồn, đôi khi cũng sáng tác những nhạc phẩm nhanh và vui, nhưng chỉ dành cho phần hòa tấu..

Trúc Hồ


--------------------------------------------------------------------------------



Nhạc sĩ Ngọc Trọng

trà lời nhà báo Trường Kỳ
(tuyển tập Nghệ Sĩ 1 xuất bản năm 1995)

Vào đường nghệ thuật chỉ do sự tình cờ, trước đây chỉ mê đàn và hát. Sau đó thử sáng tác một loạt nhạc phẩm và thành công ngay.

Bắt đầu sáng tác vào năm 1986 tại Calgary, Canada. Những nhạc phẩm dầu tay là loạt bài trong băng nhạc đầu tiên ‘Buồn Vương Màu áo’ do trung tâm Diễm Xưa thực hiện. Chưa hài lòng vì lúc đó chưa có kinh nghiệm nhiều.

Nguồn cảm hứng, đa số từ những kỷ niệm của các cuộc tình cũ.

Thói quen sáng tác tùy hứng. Thường sáng tác khi đi hát xa (lúc ở trên máy bay để giết thì giờ)....Có lúc viết nhạc trước lời sau, hay ngược lại, có khi nhạc và lời đến cùng một lúc.

Có khuynh hướng, Muốn nâng cao trình độ thưởng ngoạn của khán giả, tung ra những sáng tác có giá trị cao. Những giọng ca thích hợp với nhạc Ngọc Trọng là ý Lan, Khánh Hà, Ngọc Lan...

Ngọc Trọng


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Doãn Mẫn
tình khúc ‘Biệt Ly’



Tôi nghĩ rằng tôi sáng tác bài Biệt Ly với rất nhiều kỷ niệm. Qua những cuộc chia ly mà tôi được chứng kiến ở sân ga Hà Nội, ở bến cảng Hải Phòng đã cho tôi rất nhiều xúc động. Tôi đã dự kiến làm bài Biệt Ly này từ năm 1937, tức là năm tôi bắt đầu sáng tác. Nhưng mà rồi có nhiều trường hợp khác cho nên tôi lại viết về chủ đề khác, cho đến năm 39, có mấy việc dồn dập đến, tôi trở lại cái đề tài này. Có những buổi biểu diễn ở các rạp, một phần nữa do các anh em ở trường Bưởi làm ca cảnh, cho nên cái bài đó (Biệt Ly) mới được phổ biến.



Doãn Mẫn



--------------------------------------------------------------------------------



Nhạc sĩ Hoàng Giác
tình khúc ‘Mơ Hoa’

Chúng tôi, lúc bấy giờ, phần nhiều ở lứa tuổi 18, 19, cho nên rất mơ ước có những bài hát của người Việt làm với lời Việt....Lúc bấy giờ trong cái lớp anh em, hầu hết là học sinh, đều say sưa viết. Mơ Hoa cũng là một trong những bài tôi viết thời đó. Năm ấy là năm 1945, tôi vừa tốt nghiệp trường Bưởi, thì ở gần nhà tôi có một thiếu nữ ở trong Hà đông ra, cô ở tuổi 16 thôi. Dáng người cô ấy thon nhẹ, tóc dài. Tôi liên hệ như những người thiếu nữ Việt Nam mới lớn lên, và tôi liên tưởng ngay đến các cô ở làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường tôi đi học. Thế là tôi mơ ước viết một bài để tặng cô ấy, tức nhiên trong lòng đã mang một giấc mơ. Và đấy là bản nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi.

Hoàng Giác



--------------------------------------------------------------------------------



Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu
tình khúc ‘Mùa Thu Không Trở Lại’



đối với tôi...là một mối tình xa xưa thời còn trai trẻ. Gặp nàng vào mùa xuân, mùa hạ tình nồng cháy và mùa thu nàng ra đi. Hôm tiễn nàng ra sân bay, tôi trở về nhà phải đi ngang qua khu vườn Luxembourg. Khu vườn đó, khi tôi đi ngang, tôi chợt nhận ra mùa thu, vì chân mình đá rất nhiều lá vàng, trong tôi tự nhiên vang một giai điệu Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại. Dù là mùa thu ở Paris rất đẹp, nhưng mà từ mùa thu đó, với tôi, mùa thu không bao giờ trở lại nữa, chỉ có thế thôi.

Phạm Trọng Cầu




--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Phan Huỳnh điểu
ca khúc ‘Trầu Cau’



Nhân dịp tôi được đi xem nhạc kịch Tụy Lụy; nhạc của Lưu Hữu Phước, thơ của Châu Vinh và Thế Lữ biểu diễn tại thành phố đà Nẵng lúc bấy giờ...tôi thấy hay. Từ xưa đến giờ mình chưa được xem một cái kịch có hát, mà tôi rất là mê âm nhạc, cho nên tôi về nghiên cứu...

Nghĩ mình học nhạc chưa đến đâu, nhưng mà mình mê cái nhạc kịch Tụy Lụy, thấy các cảnh trong Tụy Lụy đóng rất hay, ước là làm thế nào mình kể một câu chuyện cổ tích, nó cũng có những cái tình tiết, tình cảm như Tụy Lụy.

Lấy chuyện cổ tích ra đọc, thì tôi thích nhất là chuyện Trầu Cau. Nó là cái truyện tình giữa hai anh em ruột và một cô gái hàng xóm. Trong đó nói cái tình vợ chồng chung thủy và cái tình gắn bó yêu thương của hai anh em...

Tôi mượn cái mandoline về, vội vào trong buồng, giấu không cho ai biết, vì mình không là nhạc sĩ, nên cũng hơi xấu hổ, mình mà nói nhạc sĩ, thì người ta cười cho vì mình đã học trường lớp nào đâu mà nói nhạc sĩ. Cho nên cố mày mò viết, viết thử thử. Lúc bấy giờ tôi viết theo cái lối những bài hát hướng đạo. Tức là một điệp khúc mà có 3 lời khác nhau. Lời người em, lời người anh, lời người vợ....Ba lời, tức là ba người cùng hát một giai điệu nhưng chỉ khác nội dung thôi.

Lúc bây giờ tôi viết xong, thực tế chỉ cho đoàn Sói Con (Lúc bây giờ chúng tôi có tổ chức Sói Con) hát, để diễn kịch trong những đêm lửa trại....Nói chung anh em hướng đạo chúng tôi rất thích cái loại nhạc như vậy. Những bài hát kể chuyện có tình, có nhạc. Thật ra, cái bài Trầu Cau, tôi viết, không nghĩ để cho người lớn hát, mà cho trẻ em hát, các cháu Sói Con hát. Và cũng không ngờ cái bài hát đó đi vào lòng quần chúng. Khi được đưa lên sân khấu có rất nhiều người thích. Cho đến nỗi có một kỷ niệm rất vui.

Năm 1991, khi tôi được những người Việt kiều bên Pháp mời sang. Trong cái đêm ca nhạc của tôi, tôi không để cái bài Trầu Cau, bởi vì tôi cho bài hát đó lâu quá rồi, cũ quá rồi, mình không nên đưa vào chương trình. Khi đêm diễn xong, có mấy cụ già 60, 70 gặp tôi hỏi :

- Nhạc sĩ Phan Huỳnh điểu đây là nhạc sĩ từ năm 45 đến giờ, hay là nhạc sĩ Phan Huỳnh điểu mới đây ?

Tôi nói : tôi là...tôi, từ trước đến nay Việt Nam chỉ có một Phan Huỳnh điểu, chứ làm gì có hai nhạc sĩ PHđ. Mấy ông bà ấy bảo : - Trời ơi, có một nhạc sĩ...tại sao cái đêm nhạc này không có cái bài Trầu Cau ? Tôi bảo: dạ cái bài đó lâu quá.

- Khi chúng tôi qua Pháp, chúng tôi hát cái bài Trầu Cau rất say sưa, và bây giờ khi nhắc đến Phan Huỳnh điểu, chúng tôi vẫn nhớ đến Trầu Cau. Mà đêm nay, không có ‘Trầu Cau’ tức là một thiếu sót rất lớn của nhạc sĩ.

đêm sau, tôi bổ sung ngay bài ‘Trầu Cau’vào và nhờ các anh chị em ở bên Pháp, nhất là các bác sĩ, kỹ sư đóng vai Tân Sinh, Lang Sinh và cô vợ. Sau cái đêm thứ hai, các bạn đến xem, vỗ vai tôi nói :

- đã có Phan Huỳnh điểu là phải có ‘Trầu Cau’ không có ‘Trầu Cau’là không phải Phan Huỳnh điểu..

đối với tôi, rất là vui và tôi nghĩ cũng là một vinh dự đối với một nhạc sĩ..

Từ cái bài ‘Trầu Cau’khai sinh ra cái tên Phan Huỳnh điểu cho đến bây giờ, điều đó tôi rất mừng.



Phan Huỳnh điểu


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Phan Ni Tấn(ND)
trả lời Quỳnh My

Thập niên 60, thỉnh thoảng ba tôi vẫn hay tổ chức các buổi đờn ca với các nghệ sĩ cổ nhạc địa phương hoặc vài đào kép chính của đoàn cải lương miền Nam lưu diễn tại thị xã Banmêthuột. Thời đó bà mẹ hiền đảm đang của tôi lo phục dịch rượu chè và đồ nhắm; còn đám thiếu niên tụi tôi vẫn hay tò mò đứng lấp ló bên cửa lắng nghe. Có lẽ đó cũng là một cơ duyên để những bản nhạc của tôi được thành tựu sau này.

Kể cũng lạ, trước 75 ở bên nhà mỗi khi có dịp nhắc tới tên tôi người ta ai cũng đều nhắc đến cái danh nhạc sĩ. Ra hải ngoại tôi lại được đón nhận vai trò Thi Sĩ hơn là Nhạc Sĩ . Nhiều bạn bè trong nước ra hải ngoại sau tôi cũng lấy làm ngạc nhiên về sự thay đổi vị trí chức năng này.

Thay vì ảnh hưởng tới vọng cổ thì tôi lại hướng sang tân nhạc. Những ca khúc

đầu tay tôi viết về Mẹ và Quê Hương trong chiến tranh Việt Nam.

Nhạc của tôi thời đó (năm 1969 tới 1975) chỉ phổ biến bằng cách ôm đàn cùng bạn bè rong ca, về sau có một số thành nhạc truyền khẩu; còn lại đều rơi vào lãng quên. Bạn bè, anh em hay người nào khác quên đã đành, chính tác giả cũng quên luôn những đứa con tinh thần của mình một cách đáng tiếc .

Hồi đó ’’nghệ sĩ’’ đến độ viết xong bản nhạc nào tôi đều ‘’quăng’’ cho bạn bè

muốn giữ lấy mà hát không thì thôi không cần biết, dĩ nhiên là mất tất thôi.Thành ra sau này ra hải ngoại nhạc của tôi có nằm trên hay nằm dưới thi ca tôi cũng đều trân trọng hết .

Ngoài những ca khúc thuần túy, có dịp đọc thơ của các anh Bắc Phong, Nguyễn Nam An, Du Tử Lê,....tôi thấy hay thì phổ nhạc. Dĩ nhiên, bài thơ phải có hồn. Tượng thanh tượng hình trong ý tứ cộng thêm phần nhạc tính và sự cảm xúc của người đọc cũng là một trong những yếu tố quan trọng . Có điều, tôi mắc phải cái ’’bệnh’’ rất khó tánh khi chọn thơ để phổ, nên bài nào đã được soạn thành ca khúc hát lên tôi cũng đều... ưng ý ráo .Thí dụ như bài Hãy Em Là Thị Lộ thơ Bắc Phong...vv.. đã từng phổ biến ngoài đời chút đỉnh. Bài Ðất Nước thơ Nguyễn Nam An cũng vậy, dù mới phổ biến quanh bạn bè, lại thêm phần hòa âm của nhạc sĩ Trần Duy Ðức nên ai... lỡ nghe qua cũng lấy làm phấn chấn.

Với tôi làm thơ, viết nhạc đều rất khó. Tuy nhiên làm thơ dễ hơn viết nhạc nhiều. Nói trắng ra là viết nhạc khó hơn làm thơ gấp hai lần, vì lời nhạc cũng là một phương thức làm thơ vậy.

Viết nhạc là một trò chơi phức tạp của tinh thần. Ôm cây đàn hay ngồi vào máy để viết nhạc có khi hoàn tất trong vòng một tiếng đồng hồ, có khi cả năm không xong một câu. Phức tạp là ở cái chỗ đó.

Phan Ni Tấn (ND)


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Việt Dzũng
trả lời nhà báo Trường Kỳ
(T.T.N.S 1- 1995)

Nhạc phẩm nào viết ra cũng được coi là một đứa con, cho dù đứa con đó xấu xí, què quặt. Vì thế nên không có một tác phẩm nào ưng ý nhất. Tất cả đều ưng ý như nhau và tất cả cũng có những khiếm khuyết khiến tác gỉa không hài lòng.

đã viết rất nhiều, trên 400 bài hát. Phổ biến nhất là những ca khúc về tỵ nạn trong hai tập tỵ nạn ca, ấn hành năm 1980 là tập Kinh Tỵ Nạn và Lưu Vong Khúc. Qua hai tập này, những nhạc phẩm đã nổi tiếng và được nhiều ca sĩ thu thanh là các ca khúc : ‘Một Chút Quà Cho Quê Hương’, ‘Lời Kinh đêm’, ‘Mời Em Về ’...Tất cả những sáng tác này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói trong những năm lạc lõng của đời sống lưu vong nơi xứ người. Sau này ca khúc viết cho thân phận người tỵ nạn cũng được phổ biến nhiều.

Số nhạc còn lại là tình ca, đã sáng tác nhiều, nhưng phổ biến giới hạn, và theo thiển nghĩ của tác giả là ‘chưa phải lúc’. Những nhạc phẩm đã được phổ biến cũng tạo thành công như các ca khúc : ‘Bài Tango Cuối Cùng’(Lệ Thu), Thung Lũng Chim Bay (Khánh Ly) và nhiều ca sĩ khác, ‘Khóc Ru đời Trinh Nữ’(thơ Nguyễn Bính/ - Ý Lan), Bên đời Hiu Quạnh (thơ Hoàng Ngọc Ẩn/- Lưu Hồng)vv...

Việt Dzũng


--------------------------------------------------------------------------------

Nhạc sĩ Dương Thụ (Việt Nam)

"Những ca khúc tình yêu tôi viết thường mang màu sắc đơn sơ chứ không có sự màu mè, văn hoa. Tôi nghĩ giai điệu bài hát không nhất thiết phải du dương, nó có thể dung dị hay gãy góc, miễn là thể hiện được cảm xúc và sự chân thành",
............
Tôi nghe nhiều lời chê bai ca khúc bây giờ chất lượng kém, giới trẻ dễ dàng chấp nhận các bài hát xoàng. Theo tôi, nếu đổ lỗi như vậy thì thật oan cho nhạc sĩ, ca sĩ trình bày lẫn công chúng. Vấn đề phải được xét từ gốc. Ở đây có hai vấn đề căn bản, một là nền sản xuất âm nhạc của Việt Nam đang lẫn lộn giữa tính xổi và chuyên nghiệp. Trên thế giới, nhạc sĩ cũng là nhà sản xuất, họ không chỉ sáng tác mà còn làm luôn một quy trình chuyên nghiệp để đưa bài hát đến với công chúng một cách hiệu quả nhất: hoà âm, chọn ca sĩ, chọn hãng phát hành, quảng bá tiếp thị. Một khi âm nhạc được sản xuất chuyên nghiệp, công chúng sẽ đón nhận những sản phẩm chuyên nghiệp. Vấn đề thứ hai là chúng ta chưa đưa âm nhạc vào giảng dạy trong nhà trường, chưa dạy trẻ về thẩm mỹ có tính nền tảng của âm nhạc. Nếu được giáo dục, khi trưởng thành, trẻ sẽ tiếp nhận nhạc có chọn lọc. Theo tôi, năm 2003 sẽ đón nhận ca khúc có nội dung đa dạng hơn. Ngoài đề tài tình yêu muôn thuở, năm nay sẽ có thêm nhiều bài ca ngợi quê hương, cuộc sống trong thời đại mới. Các đề tài thanh niên tình nguyện, thanh niên lập nghiệp và làm giàu, gắn với nhịp sống hôm nay sẽ được các nhạc sĩ trẻ chú ý.


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Phan Ngọc
trả lời Trần Thị Cúc Phương, Thanh Niên

....Mỗi thế hệ đều có những thế mạnh riêng, với tôi âm nhạc là phải bắt đầu từ hai phía, tức là phải vừa phản ánh được hơi thở cuộc sống nhưng cũng vừa mang tính bác học. Các sáng tác nhạc trẻ bây giờ nhiều bài thiếu khúc thức, đa phần hát lên nghe vui tai nhưng rồi chóng quên vì thiếu ấn tượng. Người nghệ sỹ thì phải luôn tìm tòi, sáng tạo , đổi mới nhưng có lẽ nên thận trọng, cảnh giác, đừng đánh mất tâm hồn của người Việt Nam

...Tôi vốn rất thích những hành khúc trữ tình, không quá dữ dội mà trong sáng và thể hiện được thân phận con người. Ở ca khúc Chuyện tình Tiên Sa, tôi viết “Xôn xao con thuyền, qua muôn trùng trở lại bến bờ xưa”, hay ở ca khúc Tháng Giêng chị tôi sắp thu thanh cũng được xây dựng trên chất liệu của những làn điệu dân ca. Càng về già tôi càng thích nghe những giai điệu truyền thống, ở đấy nó chứa đựng râát nhiều điều tinh tế mà hình như chỉ với năm tháng ta mới cảm nhận hết được.


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc Sĩ Mai Ðức Vinh (Canada)
trả lời Quỳnh My

Âm nhạc đối với tôi là một món ăn tinh thần qúi báu. Những khi tinh thần bị xáo trộn, sau khi nghe một bài nhạc (nhất là nhạc Việt Nam) sẽ làm cho tâm hồn mình thơ thới hơn. Hoặc đôi lúc thả hồn về quê nhà về nơi chốn chôn nhao cắt rốn, thì nghe một bản nhạc quê hương sẽ làm cho mình càng thêm đi sâu vào kỷ niệm.

Tôi thường viết nhạc vào ban đêm, trước khi đi ngủ. Sáng hôm sau, dậy sớm nghe lại bài viết của mình.


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Hoàng Dương (Việt Nam)
trả lời báo Thanh Niên

...Trong âm nhạc không có từ "nhạc cũ" "nhạc mới" mà chỉ có nhạc hay hoặc dở. Nói vậy có nghĩa là âm nhạc từ thời baroque, cổ điển, lãng mạn, ấn tượng... với những vĩ nhân tiêu biểu như Palestrina, Bach, Mozart, Beethoven, Schubert, Schuman, Tchaikovski... còn tiếp tục gây xúc động cho cả triệu trái tim con người trên khắp thế giới hơn cả âm nhạc của những người đang sống cùng chúng ta! Nhạc hay hoặc dở là do tự trái tim, từ cảm xúc có chân thành hay không, dù chỉ là việc viết một ca khúc nhỏ nhắn, khiêm tốn chứ chưa nói gì đến những công trình nghệ thuật âm nhạc quy mô cả về thanh nhạc và khí nhạc. Có một nhà nghệ thuật đã nói: "Tôi chỉ viết khi cảm thấy nếu không viết mình sẽ chết mất".

....Có một thời gian dài, tôi ít viết bài hát, nhưng trong những thập niên gần đây, tôi trở lại với tình ca, và nói chung cái chất của tôi vẫn là nhất quán: đa sầu đa cảm, mơ mộng ưu tư. Những tác phẩm của tôi, như có bạn đồng nghiệp nhận xét: trong khí nhạc có chất thanh nhạc và trong thanh nhạc có chất khí nhạc, riêng tôi cũng cảm thấy như vậy, chẳng biết đó là ưu hay là khuyết. Tôi là người chơi đàn violoncelle nên dĩ nhiên thường được sống với thế giới âm thanh cụ thể của các bậc thày, bởi vậy cũng ít nhiều có điều kiện biết được điều hay lẽ dở để có thể sửa mình và quan sát xung quanh...


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Ngọc Châu (Việt Nam)
(Thể Thao, Văn Hóa)

Có lẽ, tôi là người khó tính trong việc đưa tác phẩm ra công chúng. Ca khúc sau khi viết xong, tôi thường hoàn chỉnh luôn cả khâu phối khí. Nếu viết giọng nữ thì nhờ cô em gái hát. Tôi nghe đi, nghe lại xem cảm xúc đã chín hay chưa, ca từ đã hoàn chỉnh hay chưa... Sau một thời gian, đi đâu hoặc để tâm vào việc gì đó, quên nó đi, rồi nghe lại mà vẫn thấy khiếm khuyết thì... xếp xó luôn. Rất nhiều bài của tôi như thế. Mặt khác, cũng vì chỉ viết theo cảm xúc nên có những bài tôi sáng tác chỉ dành riêng cho mình


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Huy Tuấn (Việt Nam)
trả lời Hải Anh

Ca khúc của anh thường tuân theo chuẩn mực nào? - Giai điệu phải đẹp và lời hát chân thành. Một giai điệu đẹp sẽ trở nên dài dòng và quá lố khi nó bị cuốn theo một vài ý thơ để rồi trở thành một thể loại nhạc thơ. Khi chúng ta có giai điệu đẹp thì sẽ có những lời hát đầy cảm xúc.

...Tôi cho rằng đó (tình yêu)là đề tài thu hút hầu hết những người viết nhạc cho đến người thưởng thức nó trên toàn thế giới. Điều quan trọng là sáng tác về nó như thế nào để không tầm thường, không uỷ mị. Đề tài tình yêu luôn tiềm tàng trong mỗi người làm nhạc và có khi đến hết đời cũng không nói hết. Bởi vậy không riêng gì tôi mà hầu hết các nhạc sĩ sẽ không bao giờ nhàm chán với tình ca.


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Phú Quang
trả lời khán thính gỉa của VNExpress, 21-01-03

...Về sáng tác, không bao giờ tôi có dự định gì cả bởi vì những tác phẩm âm nhạc chỉ có thể đến trong cảm hứng đích thực của người sáng tạo. Tuy vậy, tôi cũng là một người lao động rất cần cù và nếu như có một điều gì đấy thành công được thì bao giờ tôi cũng cảm ơn trời đất.

.....Tình yêu trong ca khúc của tôi là sự cảm nhận nói chung. Để có một "em" trong bài hát đó thì cần rất nhiều cảm xúc cộng lại.

Có rất nhiều nhạc sĩ viết các tác phẩm để thể hiện khát vọng, chứ không phải cuộc sống của họ, những cuộc sống có thể chỉ rất bình thường.

.....Tôi viết cho chính mình mà chẳng nghĩ bài hát này sẽ dành cho người nào hát và ai nghe. Nhưng may mắn là có nhiều khán giả đồng cảm được với tôi. Từ đó tôi hiểu ra rằng khi đi đến tận cùng lòng mình sẽ tìm được bạn bè

.....Việc phổ nhạc cho thơ rất khó. Trước hết, nhạc sĩ phải đồng cảm với tư duy của nhà thơ. Sau đó, cảm nhận của nhạc sĩ cũng phải ngang ngửa với nhà thơ. Ngoài ra, điều quan trọng nữa là việc biến lời thơ thành ca từ trong ca khúc đòi hỏi người nhạc sĩ phải trị được thơ. Theo những lời tôi đã được nghe thì chưa có nhà thơ nào chê những tác phẩm được tôi phổ nhạc. Còn nếu có ai đó nói dở thì tôi chưa được nghe

.....Trong cuộc sống cũng như sáng tác, tôi sống hết mình và chấp nhận tất cả.

.....Bi kịch nhất của người vợ một nghệ sĩ là phải chứng kiến cảnh anh ta lao động để làm nên vinh quang. Tôi đã nghiệm ra một điều là rất ít phụ nữ có thể thông cảm được điều đó nhưng đó là điều không hề đáng trách ở họ. Bạn hãy tưởng tượng lúc bạn rất muốn người chồng ngồi ăn với mình thì anh ta lại cứ lẩm nhẩm như một thằng điên và chẳng để ý gì đến thức ăn đang nguội dần hoặc lúc 11 giờ đêm bạn đang thèm một vòng tay âu yếm thì ông chồng lại cứ cắm cúi viết lách. Tôi có lời khuyên thế này: "Tốt nhất là bạn đừng lấy nghệ sĩ. Còn nếu có lấy thì buộc phải tha thứ thôi".


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Bảo Phúc (Việt Nam)
trả lời báo sggp

Anh có suy nghĩ gì về tình hình âm nhạc hiện nay? - Điều thấy rõ nhất là sự mất cân đối, đời sống âm nhạc hiện nay thiếu vắng những sáng tác có chất lượng của các nhạc sĩ uy tín, trong khi lại có quá nhiều ca khúc mang giai điệu vay mượn thể hiện tình cảm giả tạo qua những chuỗi ca từ sáo rỗng nghèo nàn. Sự lấn át này vô tình hướng thị hiếu lớp trẻ vào thói quen cảm thụ dễ dãi, có thể đến lúc sẽ dần quên những dòng âm nhạc giá trị đích thực. Tôi nghĩ cần đặt lại vấn đề định hướng trong sáng tác, không để cái dở cứ phố biến một cách tràn lan

.......một nhạc sĩ sáng tác nhất thiết phải được đào tạo căn bản, có vốn hiểu biết nhất định và tất nhiên không thể thiếu cảm xúc thiên phú. Đáng buồn là hiện nay, có những người mang danh nhạc sĩ nhưng thiếu hẳn lòng tự trọng, muốn nhanh nổi tiếng bằng mọi cách, kể cả đạo nhạc nước ngoài. Có người một tháng sáng tác đến 4-5 bài hát.


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Trần Tiến
theo ảnh qua VNExpress,21-8-02

"Tôi không thể nói gì về bài hát được, điều đó kỳ lắm. Đã sáng tác ra thì người nghe phải hiểu, không hiểu thì có nghĩa là mình viết kém. Tôi sáng tác cho hàng triệu khán giả, chả nhẽ lại đi gặp cả triệu người ấy để giải thích?”,

....Cảm xúc đến rất tự nhiên. Vấn đề thực, giả của đời sống chỉ là cái cớ để sáng tác thôi. Không thể nào tả thực cuộc đời để hát. Mà bài hát chỉ tưởng tượng, không dính gì đến cuộc đời cũng không ra gì cả.

....Cảm xúc hay thì viết hay. Có thể viết hay ngay từ khi 19-20 tuổi, lại có trường hợp chỉ sáng tác tốt khi 60 tuổi. Điều quan trọng là nhạc sĩ phải chuẩn bị cảm xúc và có cảm xúc thật. Có khi viết đùa mà hay, có khi viết theo yêu cầu vẫn hay. Trời cho lúc đó cảm xúc đẹp thì có tác phẩm tuyệt vời, có thể cả đời không bao giờ viết được bài hay như thế nữa.

....Cái gì cũng phải học, phải nghiên cứu và tìm tòi sáng tạo. Đó là “than” để khi Thượng đế cho anh một chút may mắn - một que diêm - thì có thể cháy lớn, thành sự nghiệp âm nhạc. Nhưng nếu được cho lửa mà anh chỉ có một ít than thì cháy hết chỗ đó là hết và anh chỉ có một hai ca khúc đáng giá. Có nhạc sĩ, nhà thơ chỉ nổi tiếng với một, hai tác phẩm là vậy. Có người như Trịnh Công Sơn, trời cho một que diêm mà cháy suốt cả cuộc đời.

Anh thường mất bao lâu để sáng tác một ca khúc?- Bài nào tôi cũng chỉ làm 15 phút, nhưng chuẩn bị cho nó mất đến 5 năm, 20 năm hoặc có khi cả đời.

....Tôi chỉ viết cái tôi thích, không bao giờ muốn tạo ra một khuynh hướng, một mode hay cái gì cả. Viết xong cái này là viết cái khác, không bao giờ lặp lại. Đời sống bao giờ cũng có nỗi vui buồn, đắng cay, ngọt ngào nên tôi viết về đầy đủ mọi cảm xúc


--------------------------------------------------------------------------------


Nhạc sĩ Nguyễn Cường (Việt Nam)
(theo tạp chí Gia đình Xã Hội)

Anh quan niệm thế nào về tình yêu và âm nhạc?- Giống nhau ghê gớm, đó là nơi mình phải khám phá mãi, là tuôn trào, là dốc trọn vẹn sự sống của mình. Cả hai cùng lôi cuốn ta ở những khoảng mờ ảo - khoảng huyền diệu của những bí ẩn. Càng đắm sâu vào, càng mới mẻ, càng vô tận, vì thế ta không thể cưỡng lại ý muốn được khám phá tiếp. Nếu những người tình giữ được khoảng bí ẩn khi cùng soi thấu, cùng hoà nhập vào đời sống của nhau thì tình yêu của họ sẽ giữ được mãi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Girls Generation - Korean