Thứ Tư, 22 tháng 7, 2009

Danh ca Minh Trang, định mệnh và, những vòng nguyệt quế

Du Tử Lê





Khi những dàn đèn đã ở độ cao thích hợp nhất; khi ánh sáng đã được “cân đo” bằng máy; một lần nữa, trước khi hô khẽ “action,” người trẻ tuổi cất tiếng hỏi, lần chót, nhân vật trung tâm của những thước phim, chuyện “make-up.” Một lần nữa, người phụ nữ ngồi trên chiếc đôn mầu huyết dụ, dứt khoát:

“Không cần đâu. Bởi vì chẳng có cái đẹp nào, hơn được cái đẹp tự nhiên...”

Người trẻ tuổi đó, là Hân Nguyễn, “chủ nhân” của nhiều thước phim tư liệu quý giá về cuộc đời khá nhiều văn nghệ sĩ.

Người phụ nữ, trung tâm hay, linh hồn của bộ phim kia, là nữ danh ca Minh Trang.

Tên thật Nguyễn Thị Ngọc Trâm, nữ ca sĩ Minh Trang là cháu ngoại của Công Chúa Mỹ Lương (tục gọi Bà Chúa Nhất,) em ruột với Vua Thành Thái. Ngày 18 Tháng Tám tới đây, bà bước vào tuổi 90 (mà,) sự minh mẫn, sáng suốt của bà, khiến cho những người sắp bước vào tuổi 70 như tôi, phải mơ ước.

Nhưng điều đáng nói hơn, theo tôi, là định mệnh hay phần số, đã rất ư hào phóng, khi chọn bà, làm người nhận, cùng lúc, hai vòng nguyệt quế nghệ thuật, mang tính tiên phong, lịch sử. Ðó là:

- Minh Trang, giọng nữ, mở đường, thành danh, của dòng tân nhạc Việt, qua đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, 1948.

- Minh Trang, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ông (cũng là) một trong những nhạc sĩ tài hoa rất mực, đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt, thời phôi thai. Những ca khúc bất tử của ông, cũng được định mệnh (gần như,) gắn liền hai tên tuổi Minh Trang-Dương Thiệu Tước. Thành một.

Chặng đường nghệ thuật trên nửa thế kỷ, đã lùi xa. Nhưng những thành tựu xây dựng trên những gian nan, dò dẫm, gập ghềnh, hôm nay, người ta vẫn có thể kể, một cách dễ dàng, những ngọc-khúc vượt, thoát trên lãng quên, của Dương Thiệu Tước. Như, Ngọc Lan; Bóng Chiều Xưa; Tiếng Xưa; Ðêm Tàn Bến Ngự; Chiều (phổ thơ Hồ Dzếnh;) Ơn nghĩa sinh thành; Thuyền mơ; Bến xuân xanh v.v... (1)

Bên cạnh đó, một câu hỏi được đặt ra, cho nữ ca sĩ Minh Trang là: Với thân thế thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc như vậy, cách nào, người cháu ngoại của Bà Chúa Nhất, có thể “vượt tường lửa” thành kiến, để trở thành ca sĩ, ngay giai đoạn tân nhạc Việt Nam vừa mới dậy thì?

Từ căn phòng trên tầng hai, khu chung cư dành cho những người lớn tuổi, đường Ross, thành phố Santa Ana, ở miền Nam California, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước cho biết, tới giờ, bà cũng không biết âm nhạc đã chọn bà hay, bà đã chọn âm nhạc, như định mệnh đầu tiên của đời mình. Chỉ nhớ, ở những năm trung học, tại các trường Ðồng Khánh, rồi Quốc Học, Huế, bà đã cất tiếng hát, như một tặng phẩm trời, đất ban cho, trong những buổi sinh hoạt, lễ lạc của trường...

Ở thập niên 1930, những ca khúc mà nữ sinh Nguyễn Thị Ngọc Trâm làm ngây ngất thầy, cô, bạn học, dĩ nhiên là những bản nhạc Pháp - Thời điểm đó, chưa một ca khúc nào của dòng nhạc sau này, chúng ta gọi là “Nhạc tiền chiến” đến được với đám đông.

Năm 1942, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, người con gái của tổng đốc Bình Ðịnh, rồi Thanh Hóa, Nguyễn Hy (trước khi trở thành Thượng thư Bộ Hình,) kết hôn với giáo sư Ưng Quả - Nổi tiếng đất Thần kinh. Bà có với ông, hai người con. Người thứ nhất, Bửu Minh. Người thứ hai, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang. (2)

Năm 1948, bà đem hai con vào Saigòn, ứng thí và, trúng tuyển vai trò xướng ngôn viên Pháp ngữ của đài phát thanh Pháp Á.

Bà kể, công việc của bà là dịch những bản tin tiếng Pháp, sang tiếng Việt rồi, tự mình trình bày bản tin đó, trên làn sóng. Trong lúc dịch tin, thỉnh thoảng bà “nghêu ngao” một vài ca khúc Việt Nam, đang được ưa chuộng khi ấy, như “Tiếng Xưa” và, “Ðêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước; “Giọt Mưa Thu” và “Con Thuyền Không Bến” của Ðặng Thế Phong... (3)

“Không ngờ sự nghêu ngao, hát vớ vẩn của tôi, được ông Hoàng Cao Tăng, Chủ sự phòng Văn Nghệ chú ý. Một hôm, ông ấy hỏi tôi, sao không thử hát cho đài? Tôi nói, tôi chỉ hát chơi thôi. Có biết gì nhiều đâu mà hát! Ông bảo, thì cứ thử. Một bài thôi cũng được. Nghe lời ông Tăng, tôi hát...”

Bài đầu tiên nữ danh ca Minh Trang chọn, gửi tới thính giả đài Pháp Á, là ca khúc “Giọt Mưa Thu” của Ðặng Thế Phong. (4)

Như con ngài, tới giờ thoát thai, hóa bướm, tiếng hát và, tên tuổi Minh Trang, một sớm, một chiều thành hiện tượng: Cơn bão lớn thổi ngược chiều đất nước.

Lập tức, dư luận hình thành thế đứng “chân vạc,” cân bằng ba miền: Minh Ðỗ (miền Bắc;) Minh Diệu (miền Trung;) và, Minh Trang (miền Nam.)

“Tam Minh” này, nghiễm nhiên trở thành “Tam công nương” của dòng tân nhạc Việt.

Cũng vì định mệnh đã nhậm lẹ, chọn người con gái cháu Bà Chúa Nhất, để trao vòng nguyệt quế thứ nhất kia, lại càng khiến nhiều người cất tiếng: “Minh Trang là ai?”

Ngay những “hoàng tử” của nền tân nhạc Việt Nam thời đó, (tập trung nhiều nhất ở đất Hà Thành,) như Ðoàn Chuẩn, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Thiện Tơ... cũng xao xác hỏi nhau: “Ai là Minh Trang?”

Câu hỏi liên quan tới một tiếng hát, một người nữ, đã mang tính lây, lan mạnh mẽ của nhiều khát khao nhận diện cháy bỏng. Nó truyền nhiễm tới Thủ Hiến Bắc Việt, Nguyễn Hữu Trí. (5) Nó buộc ông Thủ Hiến phải dùng công văn chính thức, mời nữ ca sĩ Minh Trang, ra Hà Nội, trình diễn cho Hội Chợ Ðấu Xảo tổ chức mỗi năm một lần, tại Hà Nội. Một sinh hoạt mà, tầm cỡ của nó, vượt khỏi lằn ranh Bắc phần. Thành hội hoa đăng, tỏa sáng khắp Ðông Dương.

Tại Hội Chợ này, một lần nữa, “Công nương tân nhạc phương Nam,” lại cất tiếng:


“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi

Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi

Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu

Ai khóc ai than hờ!

(...)

Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây

Lòng lắng muôn bề không liếp che gió về

Ai nức nở thương đời chân buông mau

Dương thế bao la sầu...”


Tôi không biết, có phải tiếng hát, nhan sắc, ca từ... (hay tất cả những nhân tố này) đã khiến nhiều chúng anh hùng đất Thăng Long choáng váng? Những hảo hán với võ công âm nhạc thượng thừa, đã được ấn chứng, quên mình, bề gì, cũng là các trưởng môn chánh phái. Họ bỗng, hồn nhiên. Vụng dại? Họ bỗng, thanh niên. Mới lớn...? “Ồn ào” ra mắt “công nương tân nhạc phương Nam”.

Tôi không hiểu, có phải, vì biết công chúa tự tỉnh dậy trong cánh rừng tân nhạc, không do một hoàng tử nào lay động, nên nhiều “hoàng tử” Hà Thành, đã “hiển lộng võ công,” sáng tác những ca khúc mới? Quà tặng công nương? Hy vọng, được nàng “chấm đậu”?

Tôi cũng không biết, ca khúc “Tà áo văn quân” của Phạm Duy Nhượng, với những ca từ như:


“Ta gửi về người ôi mấy cung đàn Tư Mã xưa

Yêu đôi mắt huyền. Xinh như dáng thuyền

Ai nhẹ lay màn the thấp thoáng

Nàng nhẹ đôi gót hài. Dừng bên mái ngoài

Văng vẳng tiếng ai cười. Như mộng đời xa xôi...”


Ðược ông sáng tác thời gian nào? Có liên hệ gần, xa gì, tới sự xuất hiện của “nàng ‘Minh’ miền Nam” hay không?

Nhưng, hiển nhiên, bằng võ công im lặng. Từ xa. Thỉnh thoảng mới kín đáo gửi đi dăm ba nụ cười ngụ ý (như một thứ chưởng lực cực kỳ... âm nhu,) cuối cùng, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được “công nương phương Nam” chấm đậu.

Ðúng sáu mươi năm sau, nơi quê người, ở tuổi chín mươi, bà kể:

“Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn lăng xăng. Líu lo. Rối rít... Ông ấy (nhạc sĩ Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu, mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Vì, trước khi gặp, tôi đã có dịp hát nhạc của ông ấy rồi mà. Tôi cũng mong có cơ hội được gặp người nổi tiếng như ông ấy chứ...”

Hạnh ngộ giữa đôi trai tài, gái sắc hay, vòng nguyệt quế thứ hai, đã được định mệnh trao tay, từ đó.

Bà nói, dù ưng lắm. Ưng lắm đấy, nhưng:

“Mình là phụ nữ, nhất là phụ nữ thời đó, mình vẫn phải giữ gìn. Mình không thể là người tỏ tình trước được...”

Người nữ danh ca thời đầu, của dòng tân nhạc Việt Nam nhấn mạnh.

Như mạch nước ngầm, những tưởng đã cằn, khô, những tưởng đã tầng, tầng vùi chôn, mất dấu, người nữ danh ca một thời, với nụ cười hóm hỉnh; đôi mắt ánh, ngời niềm tự hào sóng sánh, chiếu, dọi tới sinh phần ký ức cách đây trên nửa thế kỷ. Bà kể, không phải đợi chờ lâu, cũng chẳng hề bất ngờ, khi vừa trở lại Saigòn, chỉ ít ngày sau, bà đã nhận được những lá thư tỏ tình của tác giả “Tiếng xưa.”

Phải chăng, trên trang giấy (cũng như trong âm nhạc,) Dương Thiệu Tước cho thấy ông là một người khác? Chỉ những phút giây một mình này, ông mới thực là ông?

Sự ít nói, hay tính rụt rè, tự đem mình xa, cách đám đông của ông, chỉ là mặt ngoài, xa vắng, quạnh hiu của một núi lửa, nung nấu nham thạch, đáy sâu. Những lá thư liên tiếp, nếu không muốn nói là tới tấp của cháu ông nghè Dương Khuê, đã được cháu Bà Chúa Nhất hân hoan, tiếp nhận, hạnh phúc, đáp ứng.

Cuộc tình của đôi trai tài/gái sắc này, đã đem lại cho dòng tân nhạc Việt, thời “dậy thì,” khá nhiều ca khúc. Mà, “Bóng chiều xưa,” và “Ngọc Lan,” là hai thí dụ, tiêu biểu. (6)

“Bóng chiều xưa,” cũng là tình khúc đầu tiên của họ Dương, khi được nhà xuất bản Tinh Hoa xuất bản, ngay năm đầu tiên của thập niên 1950, đã đề rõ “Nhạc và lời Dương Thiệu Tước-Minh Trang.”

Ký ức của những cuộc tình mà, thân-tâm-thứ-hai của nó, là (hoặc có) thi ca hay, âm nhạc tham dự, theo tôi, chúng là một thứ “thân-tâm” bất hoại. Như kỷ niệm, chúng tồn tại với thời gian. Chúng độc lập trước mọi chia, ly. Chúng đứng ngoài mọi đổ, vỡ. Chúng thường sống lại, cách của chúng. Tươi nguyên. Lấp lánh. Vàng, ngọc hạnh ngộ, đầu đời.

Trường hợp Minh Trang, cũng vậy. Không khác.

Khi bên ngoài khung kính lớn, nắng và, gió, thỉnh thoảng lại thả xuống góc phố, thảm cỏ, những trái thông chờ đợi đời, mới; thì, trên tầng lầu hai, trong căn phòng ngăn nắp, người nữ danh ca một thời, cũng thả xuống tâm hồn chúng tôi, tiếng hát của bà:


“Một chiều ái ân, say hồn ta bao lần.

Một chiều đắm duyên thơ, cho đời bao phút ơ thờ.

Ngạt ngào sắc hương, tay cầm tay luyến thương.

Ðôi mắt em nhìn càng, say đắm mơ màng nào thấy đâu sầu vương.

Một chiều bên nhau, một chiều vui sống, quên phút tang bồng.

Em nhớ chăng, xa em anh hát khúc ca nhớ mong...”

(Bóng chiều xưa)


Tiếng hát của bà (đúng hơn, tiếng hát một thời,) không chỉ như những ngón tay kỳ diệu, gõ xuống phím lòng chúng tôi, những rung động thánh thót, mà, chúng còn dội đập vào vách tường. Nơi trưng bày những bức hình ghi nhận sự hiện diện liên tục, nhiều thế hệ nối tiếp, khởi từ một định mệnh khai nguồn - Khiến những nhân ảnh từ các bức hình, dường cũng bước ra, cùng bà, ngược về quá khứ.

Tôi có cảm tưởng, nhân ảnh của nhiều thế hệ đã cùng thở, cùng đắm mình trong những dòng suối âm nhạc Dương Thiệu Tước. Những bức hình, luôn cả những khung gỗ, cũng nghiêng mình, hãnh diện đón nhận những ngợi ca của họ Dương, dành cho tiếng hát, đôi mắt, mái tóc, bàn tay... Thậm chí cả những xa cách, nhớ nhung, chăn gối một thời cũng được ông “vinh danh” bằng tất cả tấm lòng biết ơn đau đáu, của mình.

Khi người con gái của Thượng Thư Bộ Hình, Nguyễn Hy, bước vào bài hát thứ hai, “Ngọc Lan,” ca khúc ắp đầy hương thơm của tiếng hát, trầm ngát da-thịt-thương-yêu...; tôi hiểu, đó là những quay lui. Những trở lại của kỷ-niệm-nước-kiệu và, tiếng lục lạc reo vui, đời. Kiếp.


“Nhớ phút khuê ly, hồn mê tuyết hoa, Ngọc Lan, Ngọc Lan, dòng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng.

Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song.

Nét thắm tô bóng chiều, giấc xuân yêu kiều, nền gấm cô liêu.

Gió rung mờ suối biếc, ý thơ phiêu diêu!

(...)

Ngọc Lan, giọng ướp men thơ, mát êm làn lụa bông là.

Ngọc Lan, trầm ngát thu hương.

Bờ xanh bóng dương phút giây chìm sương.

Bông hoa đời ngàn xưa tới nay, rung nhạc đó đây, cho đời ngất ngây.

Cho tơ trùng đờn hờ phím loan, thê lương mây nước, sắt se cung đàn. Ôi tâm hồn nghệ sĩ chìm trong hương thắm.

...”

(Ngọc Lan) (7)


Khi những quay lui, những trở lại của kỷ-niệm-nước-kiệu và, tiếng lục lạc reo vui, đời, kiếp, cũng là lúc danh ca Minh Trang cho biết, trước khi nhận lời cầu hôn của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, bà đã bay ra Hà Nội, gặp người vợ đầu tiên của họ Dương, để thông báo quyết định của hai người.

Bà nói:

“Có thể không có một người phụ nữ thứ hai, nhất là ở thời đó, hành xử như tôi. Nhưng, đó là tôi. Cách của tôi. Tự tin và, tự trọng.”

Với tinh thần rất mực Minh Trang, rất mực “tự tin và, tự trọng,” như thế, bà kể, trong cuộc sống hôn nhân với một nhạc sĩ tài hoa, đẹp trai như nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, việc ông được nhiều phụ nữ chú ý, theo đuổi, là chuyện đương nhiên. Và, nếu tác giả “Ngọc Lan,” có đôi lần “Bờ xanh bóng dương, phút giây chìm sương” hoặc, “Ôi tâm hồn nghệ sĩ chìm trong hương thắm...” thì:

“Cũng là chuyện bình thường. Ông ấy là nghệ sĩ kia mà. Tôi chẳng hề ghen bao giờ. Tôi biết vị trí của tôi ở đâu! Tôi hơn hẳn tất cả những người đó. Tôi là vợ chính thức. Tôi lại có con cái với ông ấy. Vậy thì, đâu có lý do gì khiến tôi phải ghen...?”

Nói cách khác, việc của bà, là chăm lo gia đình, săn sóc chồng con, chu đáo. Vì nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bản chất vốn hiền lành, ít nói; cả đời ông, chưa bao giờ có một lời nói nặng, không chỉ với người bạn đời của ông; mà, với tất cả các con cái, nữa.

Danh ca Minh Trang nói, sau nhiều năm chung sống với ông, một lần, một người hàng xóm của bà, chận bà lại, để chỉ hỏi câu duy nhất:

“Bà ơi! Ông ấy là người Trung hay người Bắc vậy bà?”

Người cháu gái của Bà Chúa Nhất không thể nín cười và, cũng không che giấu ngạc nhiên, hỏi lại người hàng xóm, lý do đưa tới câu hỏi đó. Thì, bà này trả lời:

“...Từ bao nhiêu năm nay, từ ngày ông bà về đây, có mấy con rồi; mà, tôi chưa nghe ông ấy nói một tiếng... khi ra đi, cũng như lúc trở về!”

Cũng vì tính “cực kỳ... kiệm lời” của họ Dương mà, nữ danh ca Minh Trang phải thay mặt chồng, giao dịch, thương thảo tiền tác quyền, với tất cả các nhà xuất bản nhạc, các trung tâm thu băng, đĩa...

Nhưng, bà kể:

“Ðừng tưởng vì thế mà tôi có thể ảnh hưởng tới ông ấy trước những đơn đặt hàng của các trung tâm, hay các nhà xuất bản! Ông ấy chỉ viết những gì ông ấy thích. Hoàn toàn không vì tiền.” (8)

Bà cũng kể thêm, thời đó, mỗi ca khúc được trình bày qua các làn sóng điện như đài phát thanh Saigòn (hậu thân của đài Pháp Á), đài Tiếng nói Quân Ðội... Sau nữa, là đài truyền hình số 9, đều được trả tiền. Vì thế, các nhạc sĩ thường vận dụng sự quen biết của mình, với các trưởng ban nhạc, hoặc các ca sĩ, để họ thu hoặc hát bài của mình. Riêng nhạc sĩ Dương Thiệu Tước thì không. Ông từng nói với người bạn đời của ông rằng:

“Ðó là việc của những nhạc sĩ khác!” (9)

Phải chăng, vì có được phần lợi tức chính, từ những lớp dạy Guitar classic, (10) cũng như từ tiếng hát và, tài quán xuyến của người bạn đời (11,) mà, họ Dương đã giữ được nhân cách, khí tiết thanh cao, tới hết đời, nhạc sĩ của ông? (12)

Ðể kết thúc bài viết này, xin quý bạn đọc cùng chúng tôi thả tâm hồn mình, trôi về dòng Hương Giang, trong ca khúc “Ðêm Tàn Bến Ngự,” một địa danh đất nước, vĩnh cửu, như sự vĩnh cửu của chính ca khúc ấy và, lòng biết ơn và, tưởng, nhớ của chúng ta:


“Thuyền ơi đưa ta tới đâu! Tìm trăng, trăng khuyết đã lâu,

Sương xuống trên bến cô liêu thêm sầu.

Bèo nước gió mây đêm ngắn tình dài.

Có ai nhớ ai nơi giang đầu.” (13)


Du Tử Lê,

California, 1 Tháng Bảy 2009




Chú thích:

(1) Theo web-site “Nhạc tình Tuyển tập” thì, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, sinh ngày 15 Tháng Năm năm 1915 tại làng Vân Ðình, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Ðông. Ông là cháu nội của ông Nghè Dương Khuê. Trong giai đoạn phôi thai của nền tân nhạc Việt, ông là người đưa ra sáng kiến viết nhạc kiểu “lời Tây theo điệu ta.” Một thời gian sau, ông mới chuyển qua viết “Nhạc Việt, lời Việt.” Những nhạc phẩm kể trên, của Dương Thiệu Tước, không liệt kê theo thứ tự thời gian sáng tác của tác giả.

(2) Minh-Trang là tên được ghép lại từ hai người con này, của bà. Sự việc ấy, vô tình đưa tới ghi nhận: Tên của cả 3 nữ danh ca đầu tiên trong dòng tân nhạc Việt, tiền bán thế kỷ thứ 20, đều bắt đầu bằng chữ “Minh.” Và, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang, chính là nữ ca sĩ Quỳnh Giao, sau này. Cô hiện là giáo sư âm nhạc tại quận hạt Orange County, Nam California.

(3) Ca khúc “Tiếng xưa” được tác giả sáng tác năm 1940, “Ðêm tàn Bến Ngự,” năm 1946. “Giọt mưa thu” được họ Ðặng sáng tác năm 1939; người viết lời là Bùi Công Kỳ. Ngoài hai ca khúc vừa kể, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong còn có bài “Ðêm thu,” với những câu mở đầu như “vườn khuya trăng chiếu / hoa đứng im như mắc buồn / lòng ta xao xuyến / lắng nghe lời hoa / cánh hoa vương buồn trong gió / áng hương yêu nhẹ nhàng say, gió lay...” Cũng được lưu truyền tới ngày hôm nay. Theo tài liệu của trang mạng Ðặc Trưng, thì, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong sinh năm 1918, tại Nam Ðịnh. Ông mất sớm, khi mới 24 tuổi, vì bệnh lao. Sáng tác ông để lại cho đời, rất ít. Nhưng bài nào cũng được nhiều thế hệ yêu thích.

(4) Ðể cụ thể lòng trân quý tiếng hát Minh Trang, đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, đã trả tiền “casher” cho bà, ngay từ bài hát thứ nhất; không kể tiền lương phóng viên hàng tháng.

(5) Ðược biết, thời đó, người Pháp chia Việt Nam thành 3 phần. Trừ miền Nam họ cho hưởng quy chế “tự trị;” hai miền còn lại là Bắc và Trung, phải chịu quy chế “bảo hộ.” Cùng thời với Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí, ở miền Bắc, Thủ Hiến Trung phần là ông Phan Văn Giáo.

(6) Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước sáng tác ca khúc “Bóng chiều xưa” năm 1951, cho danh ca Minh Trang, hồi họ mới yêu nhau. Riêng ca khúc “Ngọc Lan,” ông viết năm 1953, khi đã chính thức sống với nhau, ở Saigòn.

(7) Nữ danh ca Minh Trang xác nhận, vì tên thật của bà là Ngọc Trâm, khi đem vào ca khúc, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đổi “Ngọc Trâm,” thành “Ngọc Lan.” Vì thế, ai có trong tay nhạc phẩm “Ngọc Lan,” do nhà Tinh Hoa xuất bản năm 1953, nếu chú ý, sẽ thấy tất cả những chữ “Ngọc Lan” trong nhạc phẩm đó, đều viết hoa, chứ không viết thường, hầu phân biệt tên người và, tên một loài hoa. Ðây cũng là một cách chơi chữ, của họ Dương, dành cho người bạn đời, của ông, vậy.

(8) Thời Ðệ Nhất, cũng như Ðệ Nhị Cộng Hòa, ngoài các chiến dịch do chính phủ phát động, cần nhiều ca khúc yểm trợ, cổ võ cho chiến dịch; được trả thù lao cao - Các nhà xuất bản, các trung tâm thu băng và, các hãng phim, cũng thường “đặt hàng / order” nhạc sĩ sáng tác những ca khúc theo gợi ý của họ...

Vì nhu cầu sống, không ít nhạc sĩ đã nhận lời.

(9) Trước Tháng Tư 1975, một trong những cách phổ biến tác phẩm của các nhạc sĩ (dù cũ hay mới, nổi tiếng hay không,) ở miền Nam là: Copy những sáng tác của mình, đem tới các đài phát thanh, đài truyền; để nơi chiếc bàn kê trước hay, trong phòng thâu. Các trưởng ban nhạc (cũng như ca sĩ,) trước khi vào phòng thu, thường dừng lại nơi này, chọn một vài ca khúc thích hợp với họ. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu không có sự gửi gấm thì, một ca khúc mới, lẫn trong hàng chục ca khúc khác, ít hy vọng được chọn, để trình bày.

(10) Một trong những học trò Guitar Classic của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, nổi danh sau này, theo danh ca Minh Trang là, nhạc sĩ Ðỗ Ðình Phương. Họ Ðỗ từng được mời trình diễn tại Tòa Bạch Ốc. Ông hiện cư ngụ tại miền Nam Califonia.

(11) Vì bệnh suyễn gia tăng, danh ca Minh Trang phải ngưng hát kể từ năm 1962.

(12) Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước từ trần ngày 1 Tháng Tám năm 1995, tại Saigòn. Ông hưởng thọ 80 tuổi.

(13) Ca khúc “Ðêm tàn Bến Ngự” của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, sáng tác năm 1946. Bài này, cũng là một trong những ca khúc của họ Dương, do Minh Trang trình bày trên đài Pháp Á, Saigòn, 1950.


Nguồn: nguoi-viet

Ðà Lạt, ma túy tình yêu và Lê Uyên Phương

Nguyễn Mạnh Trinh
Cách nay đúng 10 năm, ngày 29 Tháng Sáu năm 1999 là ngày từ trần của nhạc sĩ Lê Uyên Phương. Người thì đã mất nhưng những bản nhạc vẫn còn được hát và tiếp tục cuộc sống của nó, tạo cảm giác cho những người trẻ yêu nhau. Bắt đầu với bản nhạc viết ở xứ Pleiku nắng bụi mưa sình “Buồn đến bao giờ” rồi đến những bản nhạc kế tiếp, nhạc Lê Uyên Phương đã thổi một luồng gió mới vào tân nhạc Việt Nam. Trong bối cảnh khốc liệt của một cuộc chiến tranh mà nỗi khắc khoải tương lai cũng như những băn khoăn từ ngày tháng hiện tại đã làm giới trẻ thấy gần gũi với những ca khúc của ông mà một thời được hát như lời rao giảng bàng bạc của trái tim dù đôi khi có nhuốm nét siêu hình của triết lý. Ngôn từ thiết tha, cung bậc âm thanh thầm thì đã làm những ca khúc như Dạ Khúc Cho Tình Nhân, Còn Nắng Trên Ðồi, Lời Gọi Chân Mây, Vũng Lầy Của Chúng Ta, ... một thời đã thành những lời ngỏ yêu thương cho cả một thế hệ.

Trước khi rời khỏi trần gian có lần Lê Uyên Phương đã tâm sự trong một cuộc phỏng vấn của Trường Kỳ:

“Tôi nghĩ rằng cuộc đời này không có gì miên viễn. Cái gì nó cũng có cái lúc của nó. Tuổi trẻ tôi có rồi, khi tôi nghĩ lại thì, cái tuổi trẻ đó thật là tuyệt vời. Tôi có tình yêu rồi, tôi có tình yêu này, tôi có tình yêu khác. Tôi có một giây phút này, có giây phút khác. Tôi có tuổi cắp sách đến trường, tôi có những lúc tôi tìm kiếm những gì trong cuộc sống. Có những lúc tôi có, những lúc tôi mất. Tôi thấy tôi có hết, mà có những cái tôi thấy enjoy ghê gớm lắm. Nếu bây giờ nói, vì bây giờ cái đó nó là cái gì tuyệt vời lắm nên mình phải tìm lại nó nếu không thì nguy hiểm lắm, thì cái đó tôi không stupid để tôi làm. OK, đi, đi luôn đi! Nó có đó và nó mất rồi. Bây giờ khi nhìn sự việc như vậy thì tôi đâu có nghĩ là tôi phải mất mát cái gì đâu, tôi không nghĩ tôi phải sợ cái gì mà mất nó đâu!

Tôi không hối tiếc điều gì hết. Bây giờ tôi không nghĩ là đáng lẽ cái điều đó nó phải thế này thay vì nó phải như vậy. Không! Không! Tôi không nghĩ như thế. Ðối với tôi không có chữ đáng lẽ. Nó phải như vậy, nó là như vậy rồi. Nó có đó, và nó mất đó. Giản dị thôi, không có gì hết. Tôi chỉ thấy có cái điều như thế này, tôi chỉ sợ một ngày nào đó khi tôi mở mắt ra tôi nhìn và tôi thấy không còn cái gì đẹp hết. Thấy mưa chán bỏ xừ! Thấy nắng chán muốn chết, làm nhạc thấy muốn khùng, muốn điên lên luôn... Tôi sợ cái đó ghê gớm lắm.”

Tự nhiên, khi nghe nhạc Lê Uyên Phương, tôi lại nhớ về Ðà lạt. Thành phố ấy, những giấc mơ thanh xuân, những ước vọng tuổi trẻ. Tôi tưởng tượng như khi mình đang sống giữa thành phố sương mù. Con đường rào rạt tiếng thông reo của những bình minh vừa ửng hồng. Giữa cái trong veo của thiên nhiên, thấy lòng trải ra những kỷ niệm. Xuống con dốc, qua chợ Hòa Bình, đến thung lũng thấp hơn, khu Hồ Xuân Hương, bến xe. Leo lên con dốc nữa, nhà thờ Con Gà. Những cảnh gợi nhớ đến người, có lẽ hoài trong trí nhớ không có Ðà Lạt với rừng thông, với mây trời, không có những bãi cỏ xanh ngút ngàn mông mênh, không có những con dốc đầy hoa, chắc sẽ không có những ca khúc độc đáo mang tên Lê Uyên Phương.

Thành phố ấy, là nơi Lê Uyên Phương viết những bản nhạc đều tiên “Khi Loài Thú Xa Nhau”. Lúc tuổi trẻ, nhạc có nét hoang sơ của những lũng vắng, của mùi mật cỏ, của vị da thịt người tình. Bằng âm nhạc, bằng ngôn ngữ, là những bước chân khám phá giây phút linh thiêng lạ lùng của bà Eva cắn miếng táo cấm đầu tiên. Nhiều người phê phán sự ví von. Tại sao lại hạ thấp vị trí của con người như vậy. Nhưng phần đông, nhất là giới trẻ, lại ưa thích nồng nhiệt những bài hát mang cái tâm tư khắc khoải cùng những ước vọng, những đam mê rất thường, rất người. Những bài hát có một lúc đã thành một hiện tượng âm nhạc.

Nghe nhạc Lê Uyên Phương, những lúc buồn hay những khi vui, vẫn là một nhịp của trái tim hối hả. Tình yêu, khó mường tượng. Có lúc, là mượt mà da thịt của người nữ, gợi cảm, mời gọi. Nó gợi nhớ đến những giọt mồ hôi lóng lánh trên làn da mướt lông măng. Nhưng, cũng có lúc, là những cánh chim đơn lẻ chíu chít trên con phố sương mù, của bâng khuâng thoảng đến trong tâm thức. Khi yêu nhau, bóng với hình lẫn lộn, thực lẫn mộng chỉ có tấc gang và bất hạnh cùng hạnh phúc kề cận nhau trong niềm nhòa nhạt của cuộc sống. Nghe nhạc Lê Uyên Phương, trái tim trẻ hoài, trẻ mãi Khi tuổi đã lớn, ngẫm nghĩ từ ca từ, lắng nghe từng nốt nhạc, vẫn tìm thấy nhiều điều kỳ thú, mới lạ. Nhịp đập trái tim có khác với suy tư của lý trí? Hay xúc cảm có nhiều ngả rẽ, nhiều bước ngoặt. Từ trước, có nhiều người tìm hiểu và định nghĩa tình yêu. Và, hình như, đều có chung những kết luận không đầy đủ. Một sự bất lực của lý trí để giải nghĩa cho cảm xúc của con tim.

Cách nay hơn ba chục năm, năm 1973 ở Ðà lạt, Lê Uyên Phương đã viết những lời nhạc trong “Cất Tiếng Hát Giữa Ðời”:

“Hãy thử hỏi lại, ta còn lại gì

Trong trí nhớ nhỏ nhoi

Là một bầu trời xanh

Là mối tình lành

Hay nhẹ nhàng nuối tiếc

Hãy thử hỏi lại

Ta còn lại gì

Trong trí nhớ nhỏ nhoi

Là cơn mưa đầu mùa

Là câu hát vu vơ

Hay một giây tuyệt vọng.”

Trong tập nhạc thưở ấy, “Con Người, Một Sinh Vật Nhân Tạo” nhạc sĩ đặt nhiều câu hỏi. Tùy mỗi người, câu trả lời sẽ dễ dàng hay khó khăn theo từng cá nhân cảm nhận. Với mọi người, câu trả lời đi gần với lý lẽ tự nhiên, kiểu như “cuộc đời nó như thế, như vậy.” Nhưng, nếu ở người mà xúc cảm căng lên cao độ, như nhạc sĩ Lê Uyên Phương mà những nốt nhạc thăng hoa thành cao ngất cảm giác, thì khác. Bầu trời xanh, cơn mưa đầu mùa, những lời ngỏ của bài hát tình, những câu đối thoại vu vơ ngơ ngẩn, những chiều mưa một mình con dốc, tất cả thành khuôn cửa mở ra một lãnh thổ của tưởng tượng. Ở đó, ngôn ngữ văn chương và cung bậc âm nhạc giao hòa, tưởng như ngàn xa vọng về. Hạt mưa, sợi nắng, chiếc lá, ngọn gió, không đơn thuần là vật chất, mà còn là tượng hình của cảm giác nào xa xôi lắm nhưng lại thân gần. Như hạt mưa, không chỉ là thuần túy hạt nước rơi xuống từ trời cao, mà, nó gợi lại những nhịp điệu của âm vọng tiếng mưa trên mái tôn thuở thơ ấu nào. Hay giọt nắng, không phải chỉ là mầu vàng phai lóng lánh, mà còn gợi nhớ đến buổi sáng nào dìu em trên ngọn dốc, nghe mùi nhựa thông thoang thoảng giữa đất trời.

Lê Uyên Phương đã viết về ngày xưa, lúc anh vừa viết những bản tình ca cho tuổi trẻ muôn năm. Không phải là không khí của những phòng trà nồng nặc mùi khói thuốc của những trang sách hiện sinh vẽ ra. Mà lúc ấy, còn có bóng dáng của chiến tranh, của những nỗi niềm tuổi trẻ. (“Nhạc trẻ”, tôi vẫn không thích cái từ ngữ gộp chung cho các loại nhạc thật sự cho tuổi trẻ mà chỉ là những bài hát lai căng hát để phục vụ cho nhu cầu đầu tiên của các sân khấu dành cho quân nhân ngoại quốc...)

Viết về Ðà Lạt, nhạc sĩ như người trở về thánh địa xưa của mình, của hồi ức mang mang, của những phút giây chẳng thể nào quên được:

“...không thể nào quên được những đêm thật tuyệt vời của Ðà Lạt vào những năm của thập niên 60 chúng tôi, như phần đông những người trẻ lúc đó, thường hay la cà khắp các quán cà phê ở Ðà Lạt, nhất là cà phê Tùng gần chợ Hòa Bình. Cái phòng vuông vức với những hàng ghế liền bọc plastic đỏ, những chiếc bàn thật thấp, trên tường có một bức tranh lớn vẽ một người chơi guitar theo lối nửa lập thể, nửa ấn tượng, và cái không gian đầy khói thuốc trộn lẫn với âm nhạc nhẹ phát ra từ chiếc loa không lớn lắm đặt trên cao, tất cả đã trở thành một thứ ma túy đối với chúng tôi, một bài hát mà lúc bấy giờ chúng tôi ai cũng ưa thích, bài “J'Entend Soufflet le Train”, tôi không nhớ ai đã hát bài hát đó, nhưng cái âm hưởng vừa gần gũi vừa xa vắng của bài hát, như một tiếng còi tàu, đã thể hiện đúng tâm trạng của chúng tôi lúc bấy giờ. Phải chăng trong sự thôi thúc của đời sống, trái tim ta đôi lúc cũng bắt gặp được cái nhịp đập bất thường rất kỳ diệu của cuộc đời và trong mỗi khối óc của chúng ta, một số những tế bào não bộ đã hiểu biết được đôi điều về cái đẹp vô cùng của sự não nề trong kiếp sống.

Trong cái bấp bênh của cuộc sống lúc bấy giờ và trong cái xao xuyến khôn cùng của trí óc, âm nhạc đã tự nhiên có sức quyến rũ đặc biệt đối với chúng tôi. Không có thời kỳ nào mà âm nhạc lại đóng vai trò tuyệt vời đến như thế, nó thâm nhập vào con tim chúng ta và biến mọi lo âu của cuộc đời thành một niềm hoan lạc mới.”

“hãy ngồi xuống đây vai kề sát vai

cho da thịt này đốt cháy thương đau

cho cơn buồn này rót nóng truy hoan

cho thiên đường này

đốt cháy trong cơn chia phôi

chia phôi tràn trề

hãy ngồi xuống đây bên con vực này

ngó xuống thương đau...”

Những quán cà phê lúc bấy giờ đã thực sự trở thành cái nhà của chúng tôi, ngoài giờ đi làm, đi học ra, quán cà phê là nơi chúng tôi thường xuyên có mặt, bất kể ngày đêm, ở đó chúng tôi có thể tìm gặp những người hiểu được mình và có thể thổ lộ mọi điều riêng tư mà không ai phàn nàn gì cả

Bây giờ, tôi đang nằm nghe nhạc Lê Uyên Phương. Một người bạn, rất yêu nhạc của anh đã thu tất cả những bản nhạc anh thành một bộ tặng tôi. Nghe nhạc một mình cũng có cái thú nhất là vào những ngày lạnh chớm Ðông như hôm nay. Trong căn nhà vắng lặng, qua cửa kính nhìn thấy trời và biển, dõi những con chim chao lượn, thấy nhạc và lời như có ý vị hơn. Con tim như có khi xao xuyến. Một thưở nào, như sống lại thoảng khi.

Tự nhiên, nhớ lại lúc còn trẻ, lúc mà các quán cà phê hầu như ở toàn miền Nam đều mở nhạc Lê Uyên Phương. Những năm của thập niên 70. Những tối mưa dầm ở Pleiku, tôi đã nghe “Khi Loài Thú Xa Nhau”, đã nghe “Yêu Nhau Khi Còn Thơ”. Mưa sùi sụt nỉ non làm ẩm ướt cả ngày cái phố núi lạnh căm. Cả bọn ghé vào quán cà phê. Thật kỳ lạ, dường như nhạc của Phương phải để cho Lê Uyên hát. Giọng hát hơi khàn có pha ma túy của mê đắm tình yêu, khiến sự giao cảm thành giác quan rung động. Những nốt láy, những dấu nhấn, những lên cao và xuống thấp thành òa vỡ cảm nhận đến độ rợn người lúc ấy. Bên ngoài trời mưa, gió ào ào qua khuôn cửa, ngồi chung với mấy đứa bạn, thấy cuộc sống như có chút gì tạm bợ, chút gì bâng khuâng. Ngày mai, có đứa ở trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng phải trở về đơn vị vào trong tôi ngủ nhờ. Nó vừa cười vừa hỏi, “Ðêm nay có mục gì không? Hay là gọi một em cho vui.” Câu thơ Nguyễn Bắc Sơn lại trở về với tôi trong trí nhớ. Lúc ấy, thời buổi chiến tranh, nào biết được đứa nào còn đứa nào mất. Chuyện hiện tại, chỉ biết được đến ngày hôm nay. Ðời sống ngắn ngủi nên tình yêu cũng vội vàng. Nghe nhạc L.U. P, như nghe một thông điệp nào mà mọi người đồng vọng. Cất tiếng hát, dù chỉ trong một sít sao, mà sao vang vọng vô tận muôn năm. Bài “Cất Tiếng Hát Giữa Ðời”:

“Tôi đang làm một con chim giữa đời

cất tiếng hát để đánh thức bình minh

những tiếng hát ngắn một giây đồng hồ

nhưng dài bằng thế kỷ

Tôi đang làm một con chim giữa đời

Cất tiếng hát để đánh thức con tim

Những tiếng hát ngắn một giây đồng hồ

Nhưng cả bằng cả cuộc đời.”

Ngồi trong quán, đếm những hạt mưa, nhìn thời gian nhẹ rớt trong phin cà phê đen, nghe lời nhạc thì thầm, bạn bè dăm ba đứa thú vị và cảm khái nào hơn. Mãi sau này, làm sao tìm lại được những giây phút bốc đồng bất cần đời ấy được. Tuổi thanh xuân, nhìn đời thẳng tắp, không khuất khúc. Tâm ý lúc nào cũng trong veo chân thật dù buồn hay vui. Tình yêu, thì như đốt lửa bằng nhiệt huyết tuổi trẻ. Ngày mai, có khi chỉ là một chuỗi cười dài vô tư. Y hệt như bài hát “Dạ Khúc Cho Tình Nhân”:

“Ngày em thắp sao trời

chờ trăng gió lên khơi

mà mưa bão tơi bời

một ngày mưa bão không rời

trên đôi môi thanh xuân

ướp hôn nồng trên gối đắm say

ánh sao trời theo gió rụng rơi đầy

cùng rớt bao nhiêu ngày hoang

cùng đếm bao nhiêu mộng tàn

ru người yêu dấu trong vùng trời đêm

vừa hoa nở tươi môi

tình nhân đã xa xôi

đời ngăn cách nhau hoài

một lần thôi đã không thôi

yêu nhau trong lo âu

biết bao lần tha thiết nhớ mong

lá hoa rừng mau xóa đường quay về

làm ánh sao đêm lẻ loi

màu tối gương bùn đèn soi

ân tình sâu vẫn trong đời thủy chung...”

Nghe nhạc LUP, sao nhớ lại ngày tuổi trẻ đầy mơ mộng, lãng mạn của tầm mắt làm rộn rã nhịp đập của trái tim. Người nhạc sĩ, hơn ai hết là người làm mơ mộng thăng hoa, làm người thắp sao trời, đem tinh tú trang trí cho bầu trời đêm, như ánh trăng làm mượt làn da, làm huyền chân tóc. LUP đã viết về những giấc mơ của mình trong “Không có mây trên thành phố Los Angeles”:

“Tôi đã mơ đến một chân trời mở ra bất tận, tôi đã mơ đến những hải đảo, đến những dòng sông, đến những thành phố lạ tràn ngập ánh đèn, tôi đã mơ đến những bài hát sẽ được bay xa, bay xa mãi. Tôi đã mơ đến những nụ cười thân ái không xen lẫn một chút nghi kỵ sợ hãi nào; tôi đã mơ đến một tình người thật ấm áp không pha trộn những tranh chấp hèn mọn nào của cuộc sống; tôi đã mơ đến một cuộc sống không bị khô héo vì những độc dược của chủ nghĩa, vì những đeo đuổi mỏi mòn theo cơm áo. Chúng tôi đã mơ, đã mơ... Chúng tôi đã hát, đã hát những điều gì đang vọng lại từ những ốc đảo chơ vơ, giữa một sa mạc mênh mông, giữa một biển cả không đâu là bờ bến? Một sự thờ ơ, một niềm im lặng. Chúng ta đã thật quá bé nhỏ giữa cái thế giới rộng lớn này. Chúng ta lại càng bé nhỏ hơn giữa dòng thời gian tạo nên lịch sử nhân loại.”

Lúc sau này, ngoài những tập nhạc đã hoàn thành như “Yêu Nhau Khi Còn Thơ”,”Khi Loài Thú Xa Nhau”, “Uyên Ương Trong Lồng”, “Bầu Trời Vẫn Còn Xanh”, “Con Người, Một Sinh Vật Nhân Tạo”, “Biển, Kẻ Phán Xét Cuối Cùng”, “Trái tim kẻ lạ”, “Lục Diệp Tố”, anh còn phổ nhạc nhiều bài thơ của các thi sĩ đương thời như Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Công Thiện, Thái Tú Hạp, Kim Tuấn, Hoàng Khởi Phong, Huy Tưởng (riêng tôi cũng ghé vào được vài bài thơ anh phổ nhạc).

Ðến lúc nhắm mắt lìa đời, dường như LUP vẫn còn mải mê với nhiều cơn mộng. Dù một thời kỳ đã qua, một đời người đã xong, nhưng vẫn còn đó những bài hát, còn đó những phím đàn. Vẫn còn những ca khúc cất lên trong sôi nổi hào hứng của tuổi trẻ. Như khi tóc còn mướt xanh và mắt còn biếc thắm.

Anh Lộc, bây giờ chắc anh gần gũi lắm với suối nhạc của Bach, của Strauss, của Schuberg, của Beethoven. Có khi nào anh trở về, ngồi lại và ghé thăm ngọn đồi thấp gần trường tiểu học thị xã “trước mặt là con đường dốc dẫn xuống Hồ Xuân Hương, dọc hai bên đường những cây mai hồng đang nở rộ, trông như những khóm bông gòn màu hồng nhạt lúc nào cũng tưởng chừng như sắp rời ra từng mảnh nhỏ dưới cơn gió chiều hiu hiu của Ðà Lạt?”


Nguồn: nguoi-viet

Thứ Ba, 21 tháng 7, 2009

Trần Thiện Thanh - 40 năm Sáng Tác và Ca Hát

Nguyễn Toàn

*Lời người viết: Tháng 5/2005, khi hay tin cố ca nhạc sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh qua đời, nhiều nhà văn, nhà báo và bạn bè đã viết bài tưởng nhớ người quá cố. Và gần đây nhất, trung tâm Asia đã thực hiện DVD số 50 với chủ đề "Trần Thiện Thanh Tình Yêu - Cuộc đời và Sự nghiệp" để vinh danh cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và cũng để vinh danh Quân Lực VNCH. Nhân dịp giỗ đầu của Trần Thiện Thanh, người viết muốn ghi lại một số chi tiết từ khi quen biết TTT vào năm 1967 cho đến lần gặp cuối cùng năm 2000, coi như thắp một nén nhang tưởng nhớ người bạn văn nghệ. (Nguyễn Toàn)

***

Một buổi trưa, ngày tháng nào tôi không còn nhớ, chỉ nhớ năm 1965. Sau khi đi học về , tôi mở radio nghe chương trình phát thanh của đài Quân đội. Được nghe một bản thông báo danh sách những người trúng tuyển vào làm việc tại Nha Chiến Tranh Tâm Lý sau này là Cục Tâm Lý Chiến trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, có một người mang tên Trần Thiện Thanh trúng tuyển để sáng tác nhạc cho Đài Phát Thanh Quân Đội.
Trần Thiện Thanh được mang cấp bậc Trung sĩ Đồng Hóa cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, để phục vụ tại Đài Tiếng nói Quân Đội. Nơi đây đã có sẵn các nhạc sĩ Nhật Bằng*,
Canh Thân*, Lê Đô, Nguyễn văn Đức, Ngọc Bích* và tay trống Văn Ích, sau này có thêm nam ca sĩ Phượng Bằng.
Trong một lần về thăm gia đình tôi, ông anh rể Quản đốc đài Tiếng nói Quân Đội** đã cho tôi bản nhạc "Không bao giờ ngăn cách" sáng tác của Trần Thiện Thanh, và nhắc tôi chú ý nghe bản nhạc này với giọng ca của Nhật Trường tức Trần Thiện Thanh.
Anh về, với em rồi mai lại đi
Đường xa, mang theo bao nhiêu tình ý
Viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩu
Đêm quân hành dừng chân đồi hoa tím
Nhớ xưa đôi mình hẹn nhau mà sao sáng
Đâu bằng đôi mắt em.

Chúng mình cách xa mà vẫn gần nhau
Tình yêu không mau phai màu áo
Dẫu cho thời gian đem tâm tư vào nhớ
Lá rơi gọi mùa thu về sân úa...
Vẫn không bao giờ... không bao giờ ngăn cách đâu em

Không bao giờ, không bao giờ ân tình lại vỡ đôi
Một người đi nghe thương sao thương nhiều quá
Dáng một người em xinh sao quá xinh màu má
Không bao giờ, không bao giờ giữa mùa Hè tuyết rơi
Một đời hoa không khi nào hai lần nở
Trái mộng còn trinh nguyên khi đón anh trở về... (Không bao giờ ngăn cách - TTT)

Đúng một tuần lễ sau, vào một tối thứ bảy, trong chương trình ca nhạc của đài Quân Đội, tôi được nghe lần đầu tiếng hát của nam ca sĩ Nhật Trường qua nhạc phẩm "Không bao giờ ngăn cách" của Trần Thiện Thanh. Giọng hát của Nhật Trường thật nồng ấm, trau chuốt và là thần tượng của tôi ngay sau khi nghe lần đầu tiên.
Chính vì vậy mà nhà văn Hồ Trường An trong cuốn "Theo chân những tiếng hát" đã có nhận xét về nam ca sĩ Nhật Trường như sau: "Sự xuất hiện của ca sĩ Nhật Trường cũng khá xao động. Anh đến từ Phan Thiết vào tới Sàigon với giọng trau chuốt, nồng mặn, chỉ trong một sớm một chiều trở thành đối thủ lợi hại của Duy Khánh. Anh rất sáng sân khấu, vóc vạc khá cao lớn. Khuôn mặt tuy hơi thỏn,hàm răng anh tuy hơi vẩu, hai cái đó chỉ hơi hơi thôi, chỉ nhẹ phơn phớt thôi, nhưng vẫn tạo cho anh cái xinh đẹp bất ngờ và cũng nhờ thần thái sáng mắt, dù trải qua chặng đường thanh xuân khi khởi nghiệp ca hát ở chốn Hòn ngọc Viễn Đông, nhưng anh vẫn là thần tượng của giới trẻ, là ông hoàng mộng tưởng của các cô nữ sinh.

*Gặp Trần Thiện Thanh lần đầu
Năm 1967, tôi vào Quân Đội, phục vụ tại Tiểu đoàn Tâm Lý Chiến nằm sát cạnh Cục Tâm Lý Chiến (Nha Chiến Tranh Tâm Lý đã đổi tên), do có thời gian rảnh rỗi, tôi thường xuyên sang bên Đài Quân Đội và báo Tiền Tuyến để gặp gỡ một số bạn bè quen thân. Tại đài Quân Đội, qua sự giới thiệu của ông anh rể, tôi được làm quen với nam ca sĩ Nhật Trường tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Để rồi sau này tôi quen thân với anh nhiều hơn. Mỗi lần anh có sáng tác mới nào cũng ký tặng tôi bản đặc biệt, với chữ ký. Nào là "Đám cưới đầu xuân, Đồn vắng chiều xuân, Lâu đài tình ái, Bảy ngày đợi mong, Chuyện hẹn hò, Đêm nay ai đưa em về, Tạ từ trong đêm,
Hoa trinh nữ, Biển mặn, Hoa biển v.v...".
Biến cố Mậu Thân xảy ra, anh là người vào trình diện đài sớm nhất vì nhà anh ở bên Thị nghè. Đài phải phát thanh 24/24, nên anh đã trở thành xướng ngôn bất đắc dĩ của Đài. Dịp này anh đã sáng tác bản nhạc "Chị Ba Hàng Xanh" kể lại gương can đảm của người phụ nữ đã không sợ Việt Cộng, đã can đảm dùng dao chém đầu một tên Việt Cộng, khi chúng tấn công vô một trại gia binh ở Hàng Xanh Gia Định.
Vào đầu thập niên 70, khi nền ca nhạc thăng hoa, nở rộ, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có chương trình nhạc "Tiếng hát Đôi Mươi" trên Đài Quân Đội, cùng ban Tứ ca Nhật Trường gồm Nhật Trường, Như Thủy (em ruột), Mai Hương, Quỳnh Giao.
Ngoài ra nhà xuất bản “Tiếng hát Đôi Mươi” cũng thành lập để chuyên in các sáng tác của chính anh và bạn bè.
Cùng lúc đó Nhật Trường thường xuất hiện trên sân khấu các chương trình Đại nhạc hội và một chương trình Tivi Đặc biệt.

**Phim nhạc kịch trên Tivi
Có thể nói nhạc sĩ Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ đầu tiên đã thực hiện chương trình "Phim Truyện nhạc kịch trên Đài Tivi" số 9. Phim truyện nhạc kịch đầu tiên là "Tạ từ trong đêm" với cặp song diễn Phương Dung - Nhật Trường.
Phim truyện nhạc kịch "Tạ từ trong đêm" rất thành công và được quần chúng khán thính giả ái mộ khi lần đầu tiên được trình chiếu trên Tivi. Nhiều người không được xem, đã viết thư yêu cầu Đài số 9 cho chiếu lại.
Sở dĩ phim truyện nhạc kịch thành công là vì nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã viết thành một truyện phim có phân cảnh đàng hoàng như một phim xi-nê chiếu ở rạp.
Sau khi những thước phim đã được quay, tự Trần Thiện Thanh chọn lọc, để lồng vào phần nhạc kịch của show "Tiếng hát đôi mươi".
Cùng với bản nhạc "Tạ từ trong đêm" đã được chọn là bài ca hay nhất trong năm và nữ ca sĩ Phương Dung đoạt giải giọng ca nữ trong năm 1965.
Khi chiến trận Hạ Lào bùng nổ với cuộc hành quân Lam Sơn 719 , người anh hùng mũ đỏ tên Nguyễn văn Đương, người bạn thân của Trần Thiện Thanh hy sinh, đã làm cho Trần Thiện Thanh cảm xúc sáng tác nhạc phẩm nổi tiếng "Anh không chết đâu anh". Để rồi, với chính nhạc phẩm này, Trần Thiện Thanh đã dựng thành phim truyện nhạc kịch "Anh không chết đâu anh" cùng với sự diễn xuất của nữ ca sĩ Thanh Lan. Khi phim nhạc kịch "Anh không chết đâu anh" được phát hình, bao nhiêu nước mắt của khán giả đã tuôn trào, để thương cho sự hy sinh cao đẹp của người hùng mũ đỏ tên Đương. Và cũng từ đó, thì hầu như đi tới đâu, cũng được nhiều giới từ trẻ tới già, đều thuộc lòng câu hát "Anh không chết đâu anh, người anh hùng Mũ đỏ tên Đương".
Vào năm 1972, một buổi chiều giữa tháng Tư, tôi gặp nhà thơ Thiên Hà tại nhà hàng Thanh Thế, anh đã khoe với tôi, anh vừa sáng tác một bài thơ mới ca ngợi cái chết hào hùng của người bạn thân anh, Trung tá Nhảy dù Nguyễn Đình Bảo tại đồi Charlie. Nghe anh Thiên Hà đọc xong bài thơ, tôi chưa hề hình dung nổi ngọn đồi Charlie ra sao, nhưng chỉ vài ngày sau, tôi được nghe bản nhạc "Người ở lại Charlie", một sáng tác mới của Trần Thiện Thanh - tôi mới được biết tên một số địa danh ở Vùng 2 chiến thuật. Càng nghe nhiều lần bản nhạc nói trên, tôi càng thương cảm cho những người chiến sĩ của binh chủng Nhảy Dù nơi Tiền tuyến.
Sau bản nhạc nổi tiếng "Người ở lại Charlie", Trần Thiện Thanh còn sáng tác thêm nhạc phẩm "Chiều trên phá Tam Giang", phổ từ thơ của nhà thơ Tô Thùy Yên, sau khi cả hai đã ra thăm Quảng Trị và ghé thăm Phá Tam Giang.
Vì sợ VC tấn công vào thành phố Sàigon và đánh bom các cao ốc và cơ quan chính phủ, bộ Chỉ huy Biệt khu Thủ đô đã thiết lập các bộ Chỉ huy Đặc khu (tăng cường Quân sự cho Cảnh sát) ở các Quận trong Nội thành. Do đó các đơn vị nào đồn trú ở Quận nào, đều phải biệt phái quân nhân cho Đặc khu. Ngoài ra còn có Đại đội Dã chiến. Chính vì sự lưu động, luân phiên, nên Trần Thiện Thanh đã tạm thời rời Đài Phát Thanh Quân Đội tăng phái cho Đại Đội dã chiến. Chính vì sự gác cầu hay cao ốc mà Trần Thiện Thanh đã có nguồn cảm hứng để sáng tác nên nhạc phẩm "Tình thư của lính".

***Gặp Trần Thiện Thanh ở Cần Thơ và Little Sàigon
Sau ngày 30 tháng 4, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh bị cấm hát, do đó tôi không còn được gặp anh , chỉ biết anh thường xuyên đi xuống miền Tây lưu diễn hầu kiếm sống qua ngày. Trong một lần xuống thăm thành phố Cần Thơ năm 1985, tình cờ tôi được gặp lại nhạc sĩ Trần Thiện Thanh ở chung khách sạn và tối hôm đó, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã rủ tôi đi nghe anh hát ở ngoài rạp. Trước một số đông khán giả chật rạp, tôi đã được nghe Nhật Trường hát 2 sáng tác mới, sáng tác sau 75 đó là bản nhạc "Cho anh xin số nhà" và "Chiếc áo bà ba" cùng với nữ ca sĩ Kim Dung, người vợ mới của anh. Trong khi đó đứa con trai nhỏ 1 tuổi phải nằm trên võng phía sau hậu trường.
Cuộc gặp lại tình cờ ở Cần Thơ, sau đó, tưởng chừng tôi không bao giờ gặp lại người nhạc sĩ tài hoa này, nhưng năm 2000, nhân dịp ghé thăm Nam Cali, tôi đã gặp lại nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, cả hai chúng tôi gặp lại nhau tại cửa tiệm: Trung tâm Âm nhạc do Nhật Trường và bạn hữu chủ trương. Trong cuộc gặp gỡ này, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cho biết: Anh rất buồn được biết ở Úc, tệ nạn sang băng Video lậu quá nhiều, làm anh nản chí không thực hiện Video ca nhạc do chính anh thực hiện. (Khi ra Hải ngoại năm 1993, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã tự mình thực hiện một băng Video cho chính Trung tâm Nhật Trường phát hành). Ngoài ra, anh còn cho biết anh rất thù ghét Cộng Sản, chính họ đã giết chết thân phụ anh.
Trước khi chia tay, anh đã tặng tôi cuốn CD "Gọi tên anh là lính", đề cao các vị tướng đã tuẫn tiết vào ngày 30 tháng 4 /75.
Và không ngờ, cuộc gặp gỡ năm 2000, là lần cuối giữa tôi và anh để 5 năm sau, anh đã ra đi vĩnh viễn vì bệnh phổi với tuổi đời 63.
Có một nữ nghệ sĩ đã nói: Chúng ta phải nhớ ơn và thăm hỏi bạn bè hay vinh danh họ, khi họ còn sống. Để khi họ chết mới vinh danh thật là muộn màng. Trái lại với nhạc sĩ Trúc Hồ của Trung tâm Asia - Vinh Danh Trần Thiện Thanh sau khi chết nó có cái hay riêng của nó. Do đó Trung tâm Asia đã thực hiện DVD Asia 50 với chủ đề: "Anh không chết đâu anh - Nhật Trường Trần Thiện Thanh - Tình yêu, cuộc đời và sự nghiệp".

(*) Các nhạc sĩ Canh Thân, Ngọc Bích, Nhật Bằng đều chết trước TTT.
(*) Cựu Quản đốc Đài Tiếng Nói Quân Đội, hiện định cư Nam Cali.


Nguồn: Dactrung

Tìm Hiểu Nhạc Thính Phòng Việt Nam: Đờn Ca Tài Tử

Hoàng Việt Khanh

Nhạc thính phòng là một thể loại nhạc gồm các bài hát hoặc bản đàn được biểu diễn trong phòng khách tại tư gia hay trong một phòng nhỏ. Nhạc thính phòng Tây phương bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ thứ 16 ở châu Âu, đặc biệt là ở Ý và Anh, do những nhóm nhỏ các nhạc sĩ, ca sĩ chuyên trình bày các bài hát 1 rồi sau đó được phổ biến và phát triển tới việc trình tấu các bản đàn. Tại Việt Nam, từ thế kỷ thứ 10, dưới triều vua Lê và Đinh đã xuất hiện các buổi ca và múa trong cung đình, đền miếu, hoặc hội họp tại tư thất các quan tướng. Chính hình thức ca múa này đã làm nền tảng cho âm nhạc “thính phòng” Việt Nam ngày nay2.

Tựu trung, âm nhạc thính phòng Việt Nam bao gồm ca trù, ca Huế và đờn ca tài tử, phát triển mạnh từ đầu thế kỷ thứ 20. Điểm khác biệt chính yếu giữa nhạc thính phòng Việt Nam và dân ca Việt Nam là: nhạc thính phòng gồm những tác phẩm (có khi được ký âm) và người trình diễn cũng như người thưởng thức phải được huấn luyện để có thể sử dụng các nhạc cụ, trình bày tác phẩm, cũng như hiểu biết về thi ca; trong khi dân ca mang tính cách tự phát, tự diễn trong lúc lao động hoặc giải trí. Đờn ca tài tử (còn gọi là nhạc tài tử) được phát triển chủ yếu tại miền Nam Việt Nam. Thuật ngữ tài tử có thể hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, tài tử là những người tài năng (talent), những bậc thầy tham gia trình diễn; thứ hai, tài tử là những người nghiệp dư (amateur), gồm cả những bậc thầy nhưng không lấy đó làm kế sinh nhai tham gia biểu diễn (music of the amateurs).

Nền tảng của đờn ca tài tử chính là nhạc lễ (còn gọi là nhạc ngũ âm), một loại nhạc được phát triển vào thế kỷ thứ 17 dựa trên nhạc tế tự cung đình Huế và âm nhạc của các tỉnh Nam Trung Bộ. Nhạc lễ trở nên thịnh hành ở miền Nam vào cuối thế kỷ 19, phục vụ chính yếu cho các lễ hội tại địa phương. Các ban nhạc lễ lúc bấy giờ thường gồm có các nhạc cụ gõ và dây kéo vĩ. Do nhu cầu phục vụ cho các tang lễ về khuya, nhạc lễ cần phải chơi với âm lượng nhỏ theo yêu cầu của gia chủ. Từ đó các ban nhạc lễ được tổ chức một cách gọn nhẹ hơn vàbắt đầu dùng song lang thay cho trống nhạc để giữ tiết tấu, cũng như bỏ bớt các nhạc cụ dây kéo vĩ để chỉ còn có đàn cò. Những ban nhạc lễ nhỏ gọn như vậy còn có tên gọi lànhóm đờn cây. Kể từ năm 1885 trở về sau, các nhóm đờn cây này được gọi là ban đờn ca tài tử để phân biệt với các ban nhạc lễ và nhạc hát bội đang thịnh hành song song. Một điểm khác biệt khác giữa nhạc tài tử và nhạc lễ là sự có mặt của ca sĩ. Do vậy ngoài việc hòa đàn với nhau, ban nhạc tài tử còn tham gia việc đệm đàn cho ca hát. Mặt khác, các ban nhạc tài tử dần dần không đàn cho đám tang nữa, trừ những trường hợp rất đặc biệt. Đối tượng phục vụ mới là những đám vui như đám ăn tân gia, đám cưới nhà giàu, đám thăng quan tiến chức, hoặc đám giỗ lớn.

Đầu thế kỷ thứ 20, đờn ca tài tử trở thành một phong trào ca nhạc phổ thông tại miền Nam, nhất là tại các địa phương như Bạc Liêu, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Đước (Long An), Cái Thia (Mỹ Tho), và Sài Gòn, v.v.. Các nhóm tài tử khối miền Đông (ở vùng Sài Gòn Chợ Lớn và phụ cận) , và nhóm tài tử khối miền Tây (ở Vĩnh Long và Sa Đéc) cũng được hình thành. Đứng đầu nhóm tài tử khối miền Đông là ông Nguyễn Quang Đợi tức Ba Đợi, một nhạc sư từ triều đình Huế vào sống ở Cần Đước cầm đầu cùng với các nghệ sĩ khác như Cao Huỳnh Cư và Cao Huỳnh Điểu. Riêng nhóm tài tử khối miền Tây có ông Trần Quang Quờn tức Ký Quờn người Huế vào sống ở Vĩnh Long làm thủ lĩnh cùng với các nghệ nhân Trần Quang Diệm, Nguyễn Liên Phong và Nguyễn Tư Ba người gốc Quảng Nam. Các nghệ nhân này là những nhà tiên phong trong những cố gắng biên soạn, sáng tác và giảng dạy nhạc tài tử theo phong cách riêng của mình. Các ấn bản nhạc tài tử bắt đầu xuất hiện vào năm 1909. Riêng trong những thập niên 60 và 70, nhạc tài tử được các hãng đĩa phát hành rộng rãi trong và ngoài nước như hãng Béka, Ocora, Pathé, Việt Hải, Hồng Hoa, Marconi, và Odéon.v.v.. Từ đó nhiều danh ca, danh cầm được nhiều người biết đến. Tuy nhiên ít thấy có những trường hợp đưa nhạc tài tử lên sân khấu trình diễn như thể loại âm nhạc thính phòng phương Tây.

So với các loại nhạc thính phòng khác của Việt Nam và phương Tây, trong nhạc tài tử, vai trò của những người đàn và hát là ngang nhau. Ca sĩ trong ca trù và ca Huế thường là phụ nữ, nhưng trong nhạc tài tử, ca sĩ nam và nữ đều có vai trò ca hát bình đẳng. Dàn nhạc của đờn ca tài tử có nhiều nhạc cụ hơn dàn nhạc của ca trù và ca Huế . Các nhạc cụ sử dụng trong nhạc tài tử thường có đàn tranh, cò, kìm, gáo, độc huyền, song lang, và ống tiêu v.v.. Khoảng từ năm 1920, đàn ghi-ta phím lõm (hay “lục huyền cầm” hoặc chì gọi đơn giản là “ghi-ta”), hạ uy cầm, và viô-lông (violon hay vĩ cầm) cũng được thêm vào trong ban nhạc. Khi biểu diễn nhạc tài tử, các nghệ sĩ thường chú trọng đến sự kết hợp của các nhạc cụ có âm sắc khác nhau; ít thấy có sự kết hợp giữa các nhạc cụ cùng âm sắc. Thường thấy nhất là song tấu đàn kìm và đàn tranh - là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng sắc - mà giới chuyên môn gọi là sắc cầm hảo hiệp; hoặc tam tấu đàn kìm-tranh-cò, kìm-tranh-độc huyền, tranh-cò-độc huyền với từ chuyên môn là tam chi liên hoàn pháp. Nếu một ban nhạc có 3 nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban tứ tuyệt, nếu có 4 nhạc công và 1 ca sĩ thì gọi là ban ngũ tuyệt. Một điểm đặc biệt của nhạc Tài Tử là lối đàn ngẫu hứng - tương tự lối chơi ngẫu hứng trong nhạc Jazz của Mỹ. Ở đây, người nghệ sĩ dựa trên bài bản truyền thống để thêm thắt những nhấn nhá, luyến láy của riêng mình một cách rất tinh tế dựa trên hơi và điệu của những chữ nhạc chính, nhưng đồng thời phải hòa hợp với những nghệ sĩ cùng diễn khác. Chính vì thế mà mỗi lần nghe lại cùng bản đàn, khán thính giả luôn luôn thấy mới lạ và hài hòa. Có lẽ phần ngẫu hứng nhiều nhất trong nhạc tài tử là ở phần rao của người đàn hoặc nói lối của người ca. Người đàn dùng rao - hoặc người ca dùng nói lối - để lên dây đàn và nhất là với mục đích gợi cảm hứng cho người bạn diễn, tạo không khí cho dàn tấu, và chuẩn bị hình tượng âm nhạc cho người thưởng thức. Ngoài ra, khi trình tấu, các nghệ sĩ cũng có thể dùng tiếng đàn của mình để "đối đáp" hoặc "thách thức" với người đồng diễn. Chính vì vậy mà nhạc tài tử luôn luôn sinh động và hấp dẫn người nghe.

Đờn ca tài tử có một số lượng bài bản rất phong phú và đa dạng. Ngoài việc sử dụng một số bài bản trong nhạc lễ, còn có các bài bản từ ca Huế, dân ca miền Trung, miền Nam, và cả một số lượng lớn do các nghệ nhân bậc thầy sáng tác và cải biên. Do đặc tính ngôn ngữ vàsinh hoạt riêng của người miền Nam mà nhạc miền Trung đã được phát triển đặc biệt trong nhạc tài tử. Ví dụ bài Bình Bán của ca Huế được phát triển thành Bình Bán Vắn trong nhạc tài tử, Lưu Thủy Huế thành Lưu Thủy Đoản, Kim Tiền Huế thành Kim Tiền Bản, Phú Lục Huế thành Phú Lục Chấn, hoặc Bình Bán Huế thành Bình Bán Chấn v.v. Các bài bản phổ biến nhất trong nhạc tài tử là 20 bài bản tổ (còn gọi là nhị thập huyền tổ bản) thuộc hai điệu Bắc và điệu Nam. 20 bài bản tổ gồm có 7 bản lễ, 6 bản Bắc, 3 bản Nam và 4 bản Oán. Tương truyền rằng các bài bản này do ông Ba Đợi đúc kết và được xem như là những bài căn bản cho những người bắt đầu bước vào lĩnh vực nhạc tài tử. Một trong những bài bản nổi tiếng trong đờn ca tài tử là bản Dạ Cổ Hoài Lang - nghĩa là đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng - do nhạc sĩ Cao Văn Lầu tức Sáu Lầu ở Bạc Liêu sáng tác vào năm 1917 . Dạ Cổ Hoài Lang là bài hát được phát triển dựa trên bài Hành Vân của ca Huế. Lời ca của bài hát này được sửa nhiều lần bởi các nghệ sĩ như cô Ba Vàm Lẻo, ông Nguyễn Tử Quang, ông Trịnh Thiên Tư  và được nhiều người yêu thích. Về sau, Dạ Cổ Hoài Lang được đổi tên là Vọng Cổ Hoài Lang, rồi được đơn giản hóa thành Vọng Cổ . Từ năm 1945, ông Giáo Thinh tức Nguyễn Văn Thinh, một nhạc sư có uy tín tại Sài Gòn, đã đúc kết và phổ biến một hệ thống mới gọi là 72 bài bản cổ nhạc miền Nam (còn gọi là thất thập nhị huyền công). Theo đó, một nghệ nhân được công nhận là bậc thầy nếu biết hết 20 bài bản tổ; và để đạt mức cao siêu hơn, nghệ nhân đó cần biết hết 72 bài bản này. Nhạc tài tử được phát triển mạnh ở miền Nam một phần là nhờ có khá nhiều lò dạy được mở ra ở khắp lục tỉnh và Sài Gòn. Đầu tiên, chỉ có những gia đình khá giả mới đủ tiền mời thầy ở các tỉnh khác về nhàđể dạy. Vào những năm của thập kỷ 40 và 50, các lò dạy mới bắt đầu phổ biến, nhất là tại Sài Gòn, do các nghệ sĩ từ tỉnh lên phụ trách. Những lò nổi tiếng thời bấy giờ như các lò của nghệ sĩ Chín Phàng (từ Long An), Hai Đậu (từ Tiểu Cần, Trà Vinh), Năm Lòng và Năm Được (từ Cần Giuộc). Các lò lớn nhất, nhiều uy tín, và đào tạo nhiều danh ca danh cầm nhất có thể kể đến là lò Văn Giỏi và Tấn Đạt. Các nghệ nhân nổi tiếng như Sáu Thới, Năm Xem, Ba Đồng, Út Lăng, Tư Huyện, Tư Tụi, Sáu Thoàn, Văn Vĩ, Mười Đờn, Năm Vinh, Ba Trung, Sáu Xiếu, và Nguyễn Văn Thinh cũng có nhiều đóng góp cho việc phát triển nàỵ Trong những năm gần đây, chính quyền địa phương các tỉnh và huyện ở miền Nam Việt Nam đã cố gắng khôi phục lại các lớp dạy đờn ca tài tử cũng như tổ chức các liên hoan đờn ca tài tử cấp tỉnh hoặc liên tỉnh. Ở hải ngoại cũng đã và đang có nhiều cố gắng khôi phục lại thể loại nhạc thính phòng này của Việt Nam; nhưng hầu hết vẫn còn rời rạc và thiếu sự bảo trợ về mặt tổ chức cũng như tài chánh v.v..


mời nghe
Dạ Cổ Hoài Lang
(Út Trà Ôn)
mp3
Real Player

Do chịu ảnh hưởng của sự du nhập nhạc Tây phương, các phương tiện thông tin hiện đại, và một số nhận thức sai lạc của người dân về đờn ca tài tử nên thể loại nhạc thính phòng đặc sắc của Việt Nam này đang mất dần tính chính thống. Nhiều nơi đã thay đổi không gian thính phòng của đờn ca tài tử ûđể diễn viên hòa nhạc và hòa ca trong không gian sân khấu - nơi mà người nghe và người diễn bị tách biệt. Nhiều chương trình nặng phần trình diễn, chú trọng nhiều đến phần ca hơn là hòa đàn. Thậm chí người ca hoặc người đàn còn học thuộc lòng các bài bản ký âm theo phương Tây một cách chi tiết; và do đó làm mất đi tính ứng tác, tính ngẫu hứng đặc trưng của nghệ thuật đờn ca tài tử truyền thống. Mặt dù về mặt thang âm điệu thức giữa âm nhạc cải lương và âm nhạc của đờn ca tài tử không có ranh giới rõ rệt, nhưng với cùng một làn điệu, cùng một bản đàn, lối ca và hòa tấu nhạc tài tử có một số khác biệt với lối ca và hòa tấu nhạc trên sân khấu cải lương. Do không bị hạn chế vào việc diễn xuất và kịch bản sân khấu, người nghệ sĩ của nhạc tài tử có nhiều thuận lợi hơn trong việc ứng tác và chơi ngẫu hứng.

Xuất phát từ việc nhận thức được tầm quan trọng của nhạc đờn ca tài tử trong nền âm nhạc truyền thống Việt Nam nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, ngày nay đã có khá nhiều nhà nghiên cứu dân tộc nhạc học ở trong và ngoài nước đang tìm cách sưu tầm vàhệ thống hóa các bài bản của nhạc tài tử, nghiên cứu thang âm điệu thức, phương pháp ký âm v.v.. Một số nhạc sĩ cũng đang tìm cách sáng tác thêm các bài bản mới để góp phần vào số lượng bài bản đang thịnh hành hiện nay.

Hoàng Việt Khanh




--------------------------------------------------------------------------------


1 Lloyd, Norman. 1968. The Golden Encyclopedia of Music. New York: Golden Press.

2 Nguyễn Thuyết Phong. 1998, Vietnam. Garland Encyclopedia, Volume 4.

3 Ibid.

4 Ibid.

5 Kiều Tấn. 2002. "Hệ Thống Bài Bản nhạc Tài Tử Nam Bộ". Bảo Tồn và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể trên Địa Bàn TP. HCM. Tp. HCM: Nhà Xuất Bản Trẻ.

6 Ibid

7 Thế Bảo. 2002. "Lòng Bản - Yếu Tố Mô Hình trong Âm Nhạc Truyền Thống Việt Nam". Thông Báo Khoa Học số 6. Hà Nội: Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc.

8 Lê Thị Dung. 2002. "Vài Nét về Nghệ Thuật Đờn Ca Tài Tư ûở thành phố HCM". Bảo Tồn và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể trên Địa Bàn TP. HCM.Tp. HCM: Nhà Xuất Bản Trẻ.

9 Nguyễn Thị Mỹ Liêm. 2001. "Đôi Điều Suy Nghĩ về Cuộc Liên Hoan Đờn Ca Tài Tử Nam Bộ Năm 2001". Thông Báo Khoa Học số 5. Hà Nội: Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc.

10 Nguyễn Thuyết Phong. 1998. Vietnam. Garland Encyclopedia, Volume 4. 11 Ibid.

12 Nguyễn Thị Mỹ Liêm. 2001. "Đôi Điều Suy Nghĩ về Cuộc Liên Hoan Đờn Ca Tài Tử Nam Bộ Năm 2001". Thông Báo Khoa Học số 5. Hà Nội: Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc.

13 Đắc Nhẫn. 1987. Tìm Hiểu Âm Nhạc Cải Lương. Tp. HCM: Nhà Xuất Bản Tp. HCM.

14 Kiều Tấn cho rằng hệ thống bài bản nhạc tài tử có thể chia thành hai hệ thống Bắc và Nam. Hệ thống bản Bắc gồm các điệu thức Bắc, Xuân; hệ thống bản Nam gồm các điệu thức Ai và Oán (Kiều Tấn: xem chú thích 5).

15 Trần Văn Khê và Nguyễn Thuyết Phong. 2001. "Việt Nam". The New Grove Dictionary of Music and Musicians, ed. S. Sadie and J. Tyrrell. London: Macmillan. Theo tài liệu Tìm Hiểu Nghệ Thuật Cầm Ca Việt Nam (Đồng Tháp:Nhà Xuất Bản Đồng Tháp - 1996) tác giả Toan Ánh có trích dẫn bài viết của ông Nguyễn Tử Quang ("Thử Tìm Xuất Xứ bài Vọng Cổ") đăng trong Bách Khoa số 63 xuất bản ngày 15-8-1959 thì bài Dạ Cổ Hoài Lang được viết vào năm 1920 và tác giả là nhà sư Nguyệt Chiếu ở Bạc Liêu. Theo tài liệu "Bản Gốc Dạ Cổ Hoài Lang và các Dị Bản" in trong sách Bảo Tồn và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể trên Địa Bàn TP. HCM. (Tp. HCM: Nhà Xuất Bản Trẻ- 2002) tác giả Trần Phước Thuận có ghi rõ rằng bài Dạ Cổ Hoài Lang được công bố vào đêm rằm tháng Tám âm lịch năm Mậu Ngọ (1918) tại Bạc Liêu.

16 Trần Phước Thuận. 2002. "Bản Gốc Dạ Cổ Hoài Lang và các Dị Bản". Bảo Tồn và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể trên Địa Bàn TP. HCM. Tp. HCM: Nhà Xuất Bản Trẻ.

17 Toan Ánh. 1996. Tìm Hiểu Nghệ Thuật Cầm Ca Việt Nam. Đồng Tháp: Nhà Xuất Bản Đồng Tháp.

18 Kiều Tấn. 2002. "Hệ Thống Bài Bản nhạc Tài Tử Nam Bộ". Bảo Tồn và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể trên Địa Bàn TP. HCM. Tp. HCM: Nhà Xuất Bản Trẻ.

19 Lê Thị Dung. 2002. "Vài Nét về Nghệ Thuật Đờn Ca Tài Tư ûở thành phố HCM". Bảo Tồn và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể trên Địa Bàn TP. HCM.Tp. HCM: Nhà Xuất Bản Trẻ.

20 Cải lương là một thể loại sân khấu truyền thống Việt Nam được phát triển từ sân khấu hát bội và nhạc tài tử.

21 Kiều Tấn. 1993. "Tìm Hiểu Điệu Thức trong Âm Nhạc Tài Tử Nam Bộ". Thang Âm Điệu Thức trong Âm Nhạc Truyền Thống một số Dân Tộc Miền Nam Việt Nam. Tp. HCM: Viện Văn Hóa Nghệ Thuật tại Tp. HCM.

Nguồn: Dactrung

Tình ca

Hoàng Lan Chi

Viết tặng chú Phạm Duy nhân ngày
sinh nhật 5 tháng 10 của Nhạc sỹ
Tặng thêm con gái QC với ước mong
tình yêu quê hương sẽ thấm đậm trong lòng




Tôi yêu tình ca quê huơng từ thuở bé .Tôi nghĩ rằng ai cũng có tình yêu quê hương cả, chỉ là nhiều hay không nhiều lắm. Tình ấy sẽ đuợc vun đắp thêm bởi những giòng nhạc hay thơ mà ta đuợc nghe từ thuở nằm nôi .

Từ nhỏ, tôi thích nghe tình ca quê hương của Phạm Duy . Không bài nào bị trùng lắp. Mỗi bài một vẻ, một giai điệu riêng, một lời riêng. Tình ca, nhạc phẩm của Phạm Duy , theo tôi là một tình ca quê hương đẹp nhất !

Tình ca đã ca tụng tiếng Việt hay rõ hơn ,tiếng nói của người dân Việt . Tiếng nói của một dân tộc bao giờ cũng đuợc con người của xứ sở đó nghe từ thuở còn nằm nôi mà sau này khoa học còn chứng minh nghe từ thuở còn trong bụng mẹ . Khoa học cũng đã chứng minh là nếu bà mẹ mang thai mà đọc sách, nghe nhạc hay thủ thỉ hàng ngày cho đứa con trong bụng thì ..chúng đều có "nghe " đuợc cả .

Trở lại Tình Ca của Phạm Duy . Giòng nhạc cao, thanh thoát nhẹ nhàng và lời thì quá tuyệt để đi vào tận ngóc ngách tâm hồn của mỗi người Việt !
Vâng, từ khi chào đời, chúng ta đã đuợc nghe Tiếng nuớc ta bằng lời ru của mẹ .


Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi, tiếng ru muôn đời



Lời ru ấy sẽ còn mãi muôn đời vì đuợc truyền tụng từ đời này sang đời khác . Tiếng nuớc tôi , nhạc sỹ đã khéo léo lồng vào đó , cột mốc để trẻ con , khi nghe nhạc phẩm - là cũng biết dòng lịch sử của Việt nam đã trải dài trên bốn ngàn năm . Bốn ngàn năm với vui buồn trộn lẫn và tiếng nuớc Viêt ấy đã khóc cuời theo mệnh nuớc nổi trôi . Quá tuyệt ! Vận nuớc Việt Nam đã bao lần trôi nổi và người dân Việt , với tiếng nói đã theo vận nuớc mà khóc cuời !


Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!


Tôi thích giòng nhạc cao nhưng khi tha thiết thì xuống ngậm ngùi bằng tiếng than Ơi . Tiếng Việt ta, khi kêu than thuờng Trời ơi hay Chúa ơi, Phật ơi và cả mẹ ơi . Vì thế , lời Nuớc ơi của giòng nhạc ở Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi! rất não lòng
Lời tiếp theo -như một lời nhăn nhủ - tiếng mẹ sinh thoắt ngàn năm thành tiếng nuớc tôi . Chữ Thoắt ở đây, tôi cảm nhận như một nét chấm phá trong một bức hoạ .


Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!


Giòng nhạc vẫn thanh thoát mà đầm ấm , cao sang khi "tiếng ngang trời " để rồi chùng xúông như tiếng vỗ về " Những câu hò giận hờn khôn nguôi " . Vâng, yêu tiếng sáo diều ngang trời và yêu những câu hò đối đáp giữa đêm trăng sáng giữa trai làng gái quê . Tôi thích chữ khôn nguôi . Đúng là lời đặc trưng của miền bắc, khôn nguôi . Nghe da diết thắm thiết hơn là chữ không quên


Tôi yêu tiếng ngang trời
Những câu hò giận hờn khôn nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi
Vững tin vào mộng đẹp ngày mai


Sau giai điệu khá cao nhưng thiết tha, nhạc phẩm chuyển sang giai điệu khác . Từng lời đuợc kể lể như tiếng thủ thỉ của mẹ già , thuớt tha như tiếng võng đưa sau hè :


Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều (ư diều) làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên


Nhạc sỹ đã -rất khéo léo -lại đưa vào giòng nhạc -môt tác phẩm nổi tiếng của văn học nước nhà - Truyện Kiều ! Ví von câu hát lẳng lơ như tiếng sáo diều -theo tôi -rất tài tình. Ai mà chẳng biết Kiều -có phần lẳng lơ ? Có chút lẳng nên Kiều đã dám leo rào qua với Kim Trọng . Nhưng ..ví lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta làm tôi thú vị . Tôi trộm nghĩ , hẳn là 'làng ta ' -với tiếng sáo diều của một anh chàng mục đồng nào đó đã quyến rũ đuợc một cô gái quê . Vâng, nếu tiếng hát Trương Chi diễm tuyệt đã nao lòng tiểu thư lầu son gác tía thì tiếng sáo diều của trai làng cũng đã rung động cô gái quê . Há chẳng phải là tiếng sao diều lẳng lơ đó ư ?

Qua đoạn sau , vẫn giòng nhạc muợt mà và lời ca trữ tình . Lời ca vẽ ra một giải đất Việt Nam yêu dấu nằm phới phới bên bờ biển xanh ! nếu như đoạn truớc , chữ nổi trôi gợi hình bao thăng trầm dâu bể thì đoạn này, chữ phơi phới lột tả hình ảnh tươi mát xinh đẹp của quê hương . Nhìn quê hương và ví như một cô gái xinh đẹp nằm phơi phới , quả là chỉ có người nhạc sỹ bao năm lăn lộn đi suốt cả chiều dài đất nuớc !
Rồi tiếp theo là cả một hùng ca với Ruộng đồng vun sóng ra Thái bình ! Yêu biết bao những lời tình ca ấy. Tâm hồn người dân Việt nô nức, tự hào khi thấy quê hương nhìn trùng dương hát câu no lành ! ai có thể viết đuợc lời hùng vĩ Vun sóng ra Thái bình như Phạm Duy ?


Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh
Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình
Nhìn trùng dương hát câu no lành


Một lần nữa, giòng nhạc rực rỡ , như một khẳng định hai với hai là bốn " Đất nuớc tôi " và rồi trầm giọng nhưng kiêu hãnh " Dãy Trừơng Sơn ẩn bóng hoàng hôn ! " Tôi thích biết bao khi đuợc nghe điệp khúc khẳng định Đất nước tôi , đất nuớc tôi ..!

Với tất cả chúng ta, khi học lịch sử , từng biết đến dãy Trừơng Sơn và nhạc sỹ, một lần nữa lại khéo léo đưa địa danh ấy vào giòng nhạc quê hương . Những lời sau, đem đến cho chúng ta niềm tự hào dân tộc bát ngát !Từ đất miền tây , núi rừng Bắc đến lúa miền Nam . Tôi thú vị khi thấy như cả một môn địa lý trong Tình ca !


Đất nước tôi! Dẫy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn
Đất miền Tây chờ sức người vươn, đất ơi!
Đất nước tôi! Núi rừng cao miền Bắc lửa thiêng
Lúa miền Nam chờ gió mùa lên, lúa ơi!



Những lời sau làm lòng tôi não nuột vì xúc động . Vâng, quê hương tôi với ba miền yêu dấu , mỗi miền một vẻ đã đóng góp cho Việt Nam môt nét riêng , vô cung riêng và tôi tư hào biết bao . Nhạc sỹ thật đã hiểu thấu đáo vô cùng về mỗi vùng đất để viết nên nhưng câu diễm tuyệt

- Biết ái tình ở giòng sông Hương ! vâng, ai không biết Huế đa tình lắm Huế ơi ?
- Sống no đầy là nhờ Cửu Long ! Vâng, vựa lúa gạo của quê hương tôi chính là miền Nam yêu quý , là giòng Cửu Long bồi đắp mầu mỡ cho ruộng đồng !
- Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong . Vâng, ai không biết sông Hồng thuờng ngập lụt và con sông đỏ mầu máu đang ngóng chờ ?

Chỉ ba câu cho ba giòng nhạc đã gợi lên cho người Việt đủ ba miền yêu quý Nam Trung Bắc, tượng trưng cho ba miền là ba con sông : sông Hương,sông Hồng và Cửu Long . Thật tuyệt .


Tôi yêu những sông trường
Biết ái tình ở dòng sông Hương
Sống no đầy là nhờ Cửu Long
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong


Giòng nhạc trở lại trữ tình,thủ thỉ . Những tâm tình nhân bản, đầy ắp tình người , như thuờng thấy trong hầu hết tình ca của Phạm Duy :



Người yêu thế giới mịt mùng
Cùng tôi xây đắp ruộng đồng Việt Nam
Làm sao chắp cánh chim ngàn
Nhìn Trung Nam Bắc kết hàng mến nhau


Từ lúc thầm thì to nhỏ, tôi yêu đất nuớc tôi từ khi mới ra đời bằng tiếng mẹ ru hời , yêu câu hát Kiều lẳng lơ , rồi yêu đất nuớc xinh đẹp với ba giòng sông , mơ uớc Nam Trung Bắc xếp hàng , nhạc sỹ bắt đầu đi đến hình ảnh cụ thể : bác nông phu ! Nhạc sỹ không nói đến nhà nho mà lại là bác nông phu ! Bác nông phu , không hề thê thảm với áo rách vai mà là hào hùng với mình đồng da sắt ! Ai mà không xúc động truớc sự ca tụng này , dành cho những con người vùng quê , đem no đầy đến cho tất cả chúng ta ? Bác nông phu vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ! Tuyệt ! Làm sao nhạc sỹ tài hoa lại phóng ra đuợc lời Vài ngàn năm ? vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ! Xứng đáng chăng cho chúng ta nghiêng mình truớc sự hy sinh vô bờ , nỗi vất vả gian lao của bác nông phu , của những mẹ quê chỉ biết cần lao ?


Tôi yêu bác nông phu, đội sương nắng bên bờ ruộng sâu
Vài ngàn năm đứng trên đất nghèo
Mình đồng da sắt không phai mầu
Tấm áo nâu! Những mẹ quê chỉ biết cần lao
Những trẻ quê bạn với đàn trâu, áo ơi!
Tấm áo nâu! Rướn mình đi từ cõi rừng cao
Dắt dìu nhau vào đến Cà Mâu, áo ơi!


Sau hình ảnh cụ thể về nguời xứng đáng được ca tụng là "bác nông phu ", nhạc sỹ đã làm nức lòng người nghe, nguời dân Việt bằng niềm tự hào về những con người đã làm nên lịch sử : những vị anh hùng của các giòng họ Lý Lê Trần ! Nhạc phẩm, bây giờ , lại như một bài lịch sử ! Nhạc sỹ đã không ngừng ở qúa khứ với Lý Lê Trần mà hướng đến tương lai với câu " và còn ai nữa " vâng, thế hệ trẻ khi nghe hát đến đoạn này, sẽ cảm thấy nức lòng để muốn dấn thân làm một cái gì đó cho quê hương , để góp vào trang lịch sử oai hùng của dân tộc cùng với Lý ,Lê Trần !! Ngày xưa, khi còn bé, nghe đến đoạn này, tôi đã xúc động khóc ròng . Ôi quê hương tôi !


Tôi yêu biết bao người
Lý, Lê, Trần... và còn ai nữa
Những anh hùng của thời xa xưa
Những anh hùng của một ngày mai


Đoạn kết là lời tình tự cho quê hương , bình dị " vì yêu, yêu nuớc, yêu nòi " .


Vì yêu, yêu nước, yêu nòi
Ngày Xuân tôi hát nên bài Tình Ca
Ruộng xanh tươi tốt quê nhà
Lòng tôi đã nở như là đóa hoa!


Tình ca, một nhạc phẩm viết về quê hương rất tuyệt của Phạm Duy, bao gồm cả địa lý, lịch sử , văn học . Nhạc phẩm đã phả vào lòng người Việt niềm tự hào dân tộc, nỗi buồn vui của một đất nuớc với bao thăng trầm , đã khơi dậy tình yêu quê hương , một thứ tình cao cả nhất trong mọi thứ tình !

Viết tại Rừng Gió mùa thu 2004

Hoàng Lan Chi


Nguồn: Dactrung

Saigon với "Người Tình Già Trên Đầu Non"

Hòang Lan Chi

Tôi là nguời khoa học và chỉ coi mọi cái dính líu đến Văn học nghệ thuật như Văn,Thơ,Nhạc,Hoạ …là son phấn ! Trang điểm cho tâm hồn thêm duyên. Do đó , từ xưa, tôi không chú ý đến tác giả .

Điều tôi quan tâm là tác phẩm ! Nhưng khi về già, tôi lại quen biết một số tác giả , hoàn toàn từ ngẫu nhiên .Tôi gọi đó là duyên văn nghệ ! Như một tối tháng sáu . Saigon mưa nhè nhẹ . Tôi đến cà phê DTG . Bất chợt một giọng hát cao vút –và một bài hát tôi yêu : Nghìn trùng xa cách Nguời đã đi rồi Còn gì đâu nữa Mà khóc với cuời Mời nguời lên xe Về miền quá khứ Mời nguời đem theo toàn vẹn thương yêu … Tôi hơi ngạc nhiên.Vì biết nhạc PhamDuy bị cấm. Nhưng kệ, cứ thuởng thức. Sau đó tôi làm quen nàng , viết bài về quán cà phê , nơi nàng –nguời cũng yêu thích nhạc họ Phạm như tôi -đến hát hàng đêm-cho bạn bè nghe.

Bài viết đã khiến Nguời tình già , dù trên đầu non nhưng vẫn dõi nhìn về quê mẹ - thấy lòng xao xuyến. Việt Nam , vẫn còn vang những tình tự của ta ư ? Ông bèn viết cho tôi. Duyên văn nghệ từ đó . Tháng 7, Saigon vẫn mưa , ông về vào một ngày cuối tháng . Ông đã chọn khách sạn nằm trên con đường nhỏ , yên tĩnh gần bệnh viện Grall ngày xưa . Để rồi hàng ngày , thật chân chất, giản dị , với bộ đồ ba ba xám, ngồi quán cà phê cóc trên lề đường đối diện khách sạn, ông tiếp bạn bè ! Tôi thích vậy. Dân Saigon chính cống , chỉ nên ngồi cà phê vỉa hè …. Trứớc đó , với những lá mail duyên dáng , ông cũng làm tôi vui vui. Có một câu , tôi thích nhất .

Về VN, nghe giọng nói ông qua điện thoại, tôi ngạc nhiên.Với số tuổi ngoài 80 mà giọng nói vẫn rất khoẻ và ấm vô cùng. Đây là giọng đàn ông ấm thứ hai mà tôi nghe đuợc qua điện thoại ! Tôi mỉm cuời thầm nghĩ “hèn chi chàng hát hay !” Tuy bình dị với bà ba nhưng khi xuất hiện truớc bạn bè hay công chúng, ông vẫn đỏm dáng như tuổi thanh niên. Hôm Lưu Trọng Văn mời ông cùng chúng tôi đến nhà chơi, ông diện áo khoác xanh lè ! Chụp hình thì ông nổi nhất với mầu xanh ấy. Át cả Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý với mầu ao nhu nhã . Trên xe ông tâm sự :-Tôi về VN chẳng vì một lý do chính trị nào cả . Tôi yêu quê hương.Tôi đã già , tôi mong nhìn lại nơi tôi sinh ra, lớn lên và cả một đời ca hát cho đồng bào nghe. tôi đã 83, lần này như đi dối già ! Lúc ấy, tôi chẳng nghĩ gì . Đơn giản vì tôi sống ở VN, mọi thông tin không phải dễ dàng tiếp cận .Do đó tôi không biết đến ba không của hải ngoại : không du lịch, không gửi tiền và không mua hàng VN.. Tôi đã tức tối khi viết bài kêu gọi từ thiện cho nguời già neo đơn mà có một nick trên net chụp cho tôi cái mũ CS ! Nghe chữ dối già, tôi thấy rưng rưng. Tôi không biết gì về sinh hoạt văn nghệ hải ngoại và tôi đã tuởng từ sau 75, ông không sáng tác nhiều –như họ Trịnh. Tôi đã thầm tiếc. Một tài năng âm nhạc như thế mà đành chôn vùi cảm hứng sao ? Nhưng không, tại nhà Văn, chúng tôi nghe Mộng Thuỷ hát Trăm năm bến cũ .Rất hay. Lại một lần nữa, tài nghệ phổ thơ của ông đuợc phô bày . Sau đó vài ngày, tôi đã “dựng cổ “ Văn từ 6 giờ sáng, chỉ để chép bài thơ . Tôi ngỡ ông phổ nhạc môt bài của Văn. Ai ngờ , khi Văn đọc mới biết ông đã xào nấu” hai bài thành một bản nhạc ! Ông nói rằng, sự xúc động khi đọc giòng thơ Về thôi, nguời tình già ơi Nào đâu có trăm năm mà chờ Nào đâu có kiếp sau mà đợi đã khiến ông quyết định , về thôi - năm 2000 ! Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý đã kể lại vài câu chuyện bên lề của thuở cùng nhau kháng chiến. Vài nguời bạn Văn đến vào phút chót , phỏng vấn ông về âm nhạc VN bây giờ . Ông cẩn trọng, nói ít . Truớc khi về VN, ông mail “ sẽ có ngày tôi mời Lan Chi đến DTG và chúng ta hát với nhau , hát những lời quê hương..” Nhưng truớc khi ông về VN chừng hai ngày , tôi mail nhắc lại thì ông tỉnh bơ “ Thế không biết tôi là Phạm Cuội à ? Từ khi cô Hằng mất đi ,chú Cuội bơ vơ !” Rồi ông làm thế thật ! không báo truớc, ông cùng các con bất thình lình ghé quán DTG .Cô chủ bân dự sinh nhật nguời bạn. Được nhân viên báo tin, cô vội vã gọi phone cho tôi rồi về quán ngay. Tôi trang điểm qua loa và không quên nhét cái máy ảnh digiatal vào bóp . Cả gia đinh ông chiếm một bàn dài .Lúc tôi đến, găp Duy Quang ngoài cổng và đi luôn, không quay lại . Chỉ có Duy Cuờng và Duy Minh . Thấy tôi, ông giơ tay vẫy chào . Đêm ấy , nhạc họ Phạm đã đuợc mọi nguời hát tưng bừng .
Trong số khách , có nguời vô tình , có nguời đuợc bạn báo tin và đến …Tôi nghĩ rằng, vinh quang thì ông hẳn đã có nhiều . Nhưng với đêm ấy, tại quê nhà, nơi mà nhạc ông vẫn còn bị cấm nhưng ông đã đuợc mọi nguời hát thì hẳn là ông cảm động lắm ? Chị bạn, đã bỏ sinh nhật chồng, cũng đến quán. Chị nói với tôi “ Bác Duy có bao nhiều bài, tôi thuộc hết “ Chị cũng đã lên hát một bản .Hay ! Chị xin tôi chụp cho chị môt tấm.Tôi đùa “ giá 100US nhé “ Một bạn khoảng chừng ngoài 30 , rụt rè đến cạnh ông : -Thưa bác, ngày xưa, môt lần cháu đuợc nghe bản Chiều về trên sông của bác. Cháu mê mẩn và từ đó tìm nghe những nhạc phẩm khác của bác … Bác như là thần tượng của cháu !Tôi vẫn chiếm vị trí sau lưng ông nên nghe hết . Tôi mỉm cuời . Thần tượng ? tôi chưa tôn ai làm thần tượng bao giờ ! Anh bạn lên hát và cũng..rụt rè xin tôi môt tấm chụp chung với ông. Sau này, tôi đuợc biết anh là Kiến Trúc Sư . Một em trẻ , rất mode ở y phục và tóc nhuộm hoe vàng hát Kiếp nào có yêu nhau . Giời ạ ? tôi kinh ngạc ? một cậu bé , hát nhạc Phạm Duy quá hay ! cậu cũng xin tôi một tấm. Sau này tôi phỏng vấn. Hoá ra, cậu nghe theo cha mẹ từ bé nên cũng thích dòng nhạc Phạm Duy ! Một cặp khác cũng đến xin một tấm.Tôi là phó nhòm bất đăc dĩ hôm ấy. Duy Cường đã phải đề nghị mọi nguời hát nhạc khác kẻo bị công an chú ý ! Nàng-nguời đàn bà hát nhạc PhạmDuy –có giọng hát hao hao Thái Thanh đã hát tăng ông Trăm năm bến cũ . Ông đã lên sân khấu nói đôi lời-chỉ với nguời phụ nữ này . Gần 11 giờ, cô bé xinh xăn, về từ Canada lên hát Ngừơi Về . Ông cảm động vì –con bé còn quá nhỏ -mà biết hát Người về - nên đã lên sân khấu lần thứ hai ôm con bé cảm tạ . Tôi đoán rằng đêm đó , chắc ông ngủ ngon. Bao tình cảm , bao yêu mến và trên hết …tình ca của ông vẫn đuợc hát cho dù có lịnh cấm ! Sau đó ông có đến vài phòng trà cũng như các quán cà phê hát với nhau. Lẽ ra ông ở lâu hơn nhưng một bài báo ở VN đã khiến ông bỏ về Mỹ sớm . Chúng tôi lại tiễn ông , cũng ở quán cà phê lề đường . Lần này có thêm Thu, môt Việt kiều Hà Lan. Nghe tin ông ở VN,anh bay về ngay dù vừa mới rời VN chừng mươi ngày trước ! Hai Tôi vô tình đọc bài viết về ông của BG trên web XXXX.

Tôi vẫn biết nghệ sỹ sống khá phóng túng. Từ bé, tôi đã nghe giai thoại “ăn chè” nhưng tôi không quan tâm đến đời sống riêng tư của ông .Tuy vậy, lời kết tội của BG làm tôi khá hoang mang ? Tôi hỏi trực tiếp . Ông mail “ Tôi không hề chơi thân với ông X đó. Tôi sáng tác nhạc cho đồng bào nghe. Do vậy tôi phải trân trọng thính giả là những nguời ưa thích nhạc tôi . “ Tiếp đó, ông gửi cho tôi xem –cái gọi là Hồ sơ Gió tanh mưa máu -của một số cây viết chuyên nghiệp hay tài tử - trả lời cho những gì mà nguời ta gán cho ông. Tôi không muốn phán xét điều chi hết . Vì không có điều kiện và cả tư cách để kiểm chứng rõ ràng từ cả hai phía ! Nhưng tôi tin -với những bản nhạc về quê hương tuyệt vời mà đỉnh cao nhất là nhạc phẩm Tình ca – không thể nào là một con nguời vô thần hay khinh miệt khán thính giả ! Nhưng để tin đuợc điều đó , chúng tôi cũng đã xung đột vài lần. Vì , có lẽ tôi khác xa ông nhiều quá chăng ? Thứ nhất tôi bị một nền giáo dục cổ xưa chi phối !do đó tôi không thể chấp nhận cuộc sống phóng túng của nghệ sỹ một cách dễ dàng . Thứ hai, tôi ít quan tâm đến giới nghệ sỹ nên không tìm hiểu đời sống cá nhân hay tâm tư của họ nhiều ..Tôi chỉ nghe hay xem tác phẩm .Chỉ bây giờ, tuổi già và tương đối rảnh rỗi , tôi mới tìm đến đôi chút ! Thứ ba, tôi chưa bao giờ tôn ai làm thần tượng ! Tôi mê nhạc ông nhất là tình ca quê hương. Tôi chưa thấy ai qua đuợc ông về phương diện này . Nhưng mê nhạc chứ không mê nguời ! Vì vậy, tôi –thời gian đầu –đã có chỉ trích ! Nhưng -với tâm tình dàn trải trong hồi ký và cả mail, tôi đã có cái nhìn khác về ông nói riêng và giới nghệ sỹ nói chung . Vâng, để có cảm hứng viết những nhạc phẩm hay bài thơ tuyệt, tác giả phải có một xúc cảm thật ! Và cảm xúc với nguời vợ hiền thì không còn sôi nổi như thuở ban đầu ! Cô Thái Hằng –mà ông xưng tụng là Á Thánh –đã hiểu điều đó nên đã để ông có cảm hứng mà sáng tác. Ngoài cái đam mê đó, ông không rượu chè, cờ bạc, hút sách hay bỏ bê vợ con ..

Ông tâm sự “đời tôi như cái kiềng ba chân . Chỉ vững khi có đủ ba. Đó là gia đinh, nguời tình và nghệ thuật ” Với gia đinh, ông lo trọn vẹn cho các con. Với nghệ thuật, ông tìm tòi, cống hiến những tình ca bất hủ . Với nguời tình, ông trọn niềm say đắm . Cả ba quyện vào nhau đem đến cho ông sự bình an . Bình an để ông ngắm cuộc đời , viết về nó với những xúc cảm rất thật . Ông đã hỏi , tôi dám đem chuyện của ông ra bạch hoá ? tôi mỉm cuời .Tôi không đủ khả năng, thì giờ để làm chuyện đó . Tôi chỉ biết môt điều giản dị, tôi yêu quê hương , yêu tình ca quê hương của ông và mong ước nhỏ bé, đem giòng nhạc quê hương của ông đến với giới trẻ trong nuớc ! Tôi không muốn họ bị ảnh hưởng bởi những đồn đãi vu vơ ..Tôi không có điều kiện nghe tiếng nói của cả đôi bên nhưng tôi tin, con nguời Phạm Duy không phải vô thần. Niềm mơ uớc đuợc nhìn lại quê hương, nơi ông đã sinh ra, lớn lên và viết biết bao tình ca về nơi ấy là niềm khắc khoải lớn nhất ở cuối đời của ông. Hãy thông cảm với nguời già. Về để nhìn lại chứ không phải về là thoả hiệp. Nhưng tiếc thay, vì cái bóng quá lớn của ông nên việc Về của ông đã làm cho ông quằn vai . Tôi đã ví von, nguời tình già trên đầu non, nhìn về quê cũ để thảng thốt “nào có trăm năm mà chờ với đợi “ , rồi chuyến trở về cứ như vác thánh giá trên vai ! Tôi thông cảm với niềm mong ước nhìn lại quê hương truớc khi đi vào cõi xa xôi. Với số tuổi ngoài 80, nào còn thời gian mà chờ đợi ? Hãy để ông yên. Nguời nghệ sỹ không thể tách rời chính trị ? đúng. Vì nghệ sỹ nhất là nhạc sỹ góp phần không nhỏ trong lịch sử , do đó không thể trung lập mà phải có lựa chọn. Nhưng ..sự lựa chọn trở về chỉ là “dối già “ thì hãy thông cảm cho ông ! Thông cảm cho người là mong ước một thông cảm dành cho chính ta . Tôi tin thế . Ai cũng cần thông cảm, không chỉ một lần mà có khi cả một đời, phải thế không ?

Saigon 2003
Hòang Lan Chi

*Ngưòi tình già trên đầu non: một nhạc phẩm của Phạm Duy

Nguồn: Dactrung

Một Cái Nhìn Về Ca Từ Trịnh Công Sơn

Trần Hữu Thục

Tôi không kẻ thù nên đau từ độ
tóc úa là nhờ những tháng âu lo
TCS


I. Hôn phối

Văn Cao: “Tôi gọi TCS là người ca thơ (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ”(1)

Nguyễn Xuân Hoàng nhận xét: “TCS là một thi sĩ. Vâng, anh đích thị là một nhà thơ viết nhạc”(2)

Vũ Thư Hiên: “Xét cho cùng, TCS là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta”(3)

Bùi Bảo Trúc: “Có những bản nhạc của ông, phần lời ca đúng là những bài thơ. Ông dùng nhạc để nâng đỡ những đoạn thơ đó. Và ông cũng dùng thơ để dẫn những đoạn nhạc đi”(4)

Một người bạn là giáo sư âm nhạc, khi chỉ tôi về cách sáng tác ca khúc, nhắc nhở: “Ông viết sao đó thì viết, nhưng nhớ là đừng có bị “lai” Phạm Duy và Trịnh Công Sơn”. Tôi hứa cố gắng. Bắt chước nhạc Phạm Duy thì không được rồi. Giòng nhạc của ông phong phú, đa dạng quá, vừa sáng tạo lại vừa chuyên môn và thay đổi theo từng loại ca khúc, theo nội dung và đề tài, chẳng cái nào giống cái nào. Thiền ca không giống tâm ca, khác xa tục ca, lại chẳng quan hệ chút nào đến tình ca và những ca khúc yêu nước. Riêng TCS thì thật là khó thoát. Tôi đã thử loay hoay “sáng tác” nhiều đoạn, nhiều bài, nhưng xong rồi nghe lại (và nhờ bạn bè nghe lại) thì chúng cứ “lai lai” TCS thế nào ấy. Nhẹ nhẹ. Buồn buồn. Đều đều. Nghe cứ phảng phất, nếu không Diễm xưa, Tuổi đá buồn thì cũng Ru em bốn mùa, Hạ trắng...Sửa đi, sửa lại, cố thay đổi. Vẫn cứ thế. Vẫn nặng “mùi” TCS. Tức quá, tôi tìm cách viết theo một thể điệu khác hẳn, thay vì “gam” Mi thứ, La thứ, tôi chọn Đô trưởng chẳng hạn. Nghe có hơi khác TCS. Mừng, tưởng thoát. Nhưng đến khi đặt lời thì ôi thôi, những rong rêu, cát bụi, phố xưa, ngậm ngùi, muộn phiền, hư vô, ngày tháng, trăm năm, hư hao, nỗi nhớ...chúng nó cứ ào vào. Rốt cuộc, thoát được nhạc thì “bị” lời. Đặt lời khác thì lại không được, vì cái “tạng” mình nó vậy, làm sao bây giờ. Thế thì thôi, hát TCS đi cho nó khỏe. Đành bỏ mộng.

Tại sao vậy? Lý do khá đơn giản: nhạc của anh rất giản dị, không có gì chuyên môn, cầu kỳ. Cũng như TCS, tôi thích mấy “gam” bình thường như La thứ, Mi thứ. Thích nhịp điệu buồn buồn, trầm trầm và nhiều chất diễn tả như blue (2/4), boston (3/4) và cách chuyển “gam” rất bài bản và dễ. Coi lại những bản nhạc TCS, tôi nhận thấy hầu hết những bản nhạc nổi tiếng của anh - những bản nhạc nhiều người ưa thích - đều “rơi” vào hai “gam” La thứ (nếu không thì La trưởng, hoặc La thứ + trưởng) và Mi thứ (hoặc Mi trưởng). Này nhé:

* La thứ: Biển nhớ, Gọi tên bốn mùa, Cát bụi, Chiếc lá thu phai, Cúi xuống thật gần, Đêm thấy ta là thác đổ, Hạ trắng, Lời buồn thánh, Một ngày như mọi ngày, Phôi pha, Ru ta ngậm ngùi, Tình xa, Ướt mi, Em đi bỏ lại con đường, Những giọt máu trổ bông, Nối vòng tay lớn, Dân ta vẫn sống...

* La trưởng: Nắng thủy tinh, Nhìn những mùa thu đi, Quỳnh hương, Tuổi đá buồn

* Mi thứ: Còn tuổi nào cho em, Diễm xưa, Em còn nhớ hay em đã quên, Hoa vàng mấy độ, Một cõi đi về, Như cách vạc bay, Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng, Tình nhớ, Tình sầu, Thương một người, Ta đã thấy gì trong đêm nay.

* Mi trưởng: Nguyệt ca

Hai “gam” La và Mi là hai “gam” dễ hát, dễ đàn, rất thích hợp với nhạc TCS. Chỉ cần một chút kiến thức âm nhạc và một chút thói quen là có thể “chơi” nhạc anh dễ dàng. Đây là một kinh nghiệm thuần cá nhân và cảm tính. Tôi có thể nói, dường như hai âm giai đó tự nó đã mang cái chất TCS (hoặc là vì anh đã mang cái chất của anh vào hai “gam” đó).

Phạm Duy nhận xét: “...toàn thể ca khúc TCS không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại”(5) .

Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra”(6) .

Một người viết khác, Phạm Văn Tuấn nhận xét: “Đứng trên khía cạnh lý thuyết nhạc, nhạc của Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, phần lớn những bài hát đều được viết theo thể điệu chậm (slow), Boston hay nhanh lắm là điệu Fox. Suốt hơn 40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn không khai phá gì thêm ngoài những giai điệu đơn giản đó”(7)

Những nhận xét trên cùng với kinh nghiệm nhỏ nhoi của riêng mình cho tôi thấy, chỉ với nhạc không, ta sẽ chỉ có một TCS nhạc sĩ bình thường, không mang cái hơi hướm đặc biệt TCS như ta biết hiện nay, không trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử ca nhạc và cả trong lãnh vực văn học như hiện nay. Vậy thì sao lại là nhạc TCS?

Một nghịch lý: Nhạc TCS hay là nhờ ở ngôn ngữ TCS. Nếu không thích hát, ta có thể dở bất cứ một bài hát nào của TCS và đọc, y như đọc thơ. Ta sẽ thưởng thức các ca từ đó như bài thơ. Và thế cũng đủ. Người viết bài này, rất thích hát nhạc TCS, nhưng trong nhiều trích đoạn trong dưới đây, không hề biết “nhạc” của chúng. Mỗi một bản nhạc, tôi đọc như một bài thơ. Nhưng một câu hỏi khác đặt ra: ở Việt Nam, trước 1975 cũng như sau này, đâu có thiếu những bài thơ hay (hay bằng hoặc hay hơn TCS) của những nhà thơ tài hoa khác. Tại sao chúng không nổi tiếng bằng TCS. Thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn. Điều đó dẫn đến một nghịch lý thứ hai: thơ TCS hay là vì chúng được biến thành âm thanh, thành nhạc và phổ biến rộng khắp. Chúng ta biết, nhiều bài thơ đã trở thành hay, thành phổ biến và được công chúng đón nhận là nhờ được phổ nhạc, nghĩa là biến thành âm thanh. Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Du Tử Lê chẳng hạn. Ngôn ngữ TCS là những bài thơ. Y như bất cứ một bài thơ nào khác. Có điều chúng tự biến thành âm thanh cùng lúc sáng tác. Đó là những “bài thơ âm” (Văn Cao gọi TCS là người ca thơ). Chúng có cùng với nhạc. Có thể nói chúng là nhạc. Chúng được sáng tác cho nhạc. Nhưng vẫn không phải là những bài thơ phổ nhạc.

Mặt khác, qua một số lượng khá lớn bài hát, ngoài việc tạo các cấu trúc câu khá cân đối, ta nhận thấy TCS có vẻ chú ý nhiều đến cách hợp vần. Như ta đã biết, khi sáng tác nhạc, nhạc sĩ nào cũng tìm lời có vần, rất cần thiết để tạo âm thanh thích hợp trong giòng nhạc. TCS, cũng như Phạm Duy, dụng công rất nhiều trong việc tạo vần, nhất là cho những từ ở cuối mỗi câu nhạc. Và cũng như Phạm Duy, lối hợp vần của anh khá đa dạng, do đó, tạo nên những nét nhạc lạ, nhiều khi rất bất ngờ:

- Để một mai tôi về làm cát bụi, ôi cát bụi mệt nhoài
- Đi lên non cao đi về biển rộng , đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
- Tình ta như núi rừng cúi đầu, nghe tiếng buồn rơi đều
- Ru em hài nhung gấm, ru em gót sen hồng

Ru bay tà áo rộng, vừa tình tôi chắp cánh

Bốn câu cuối, khi hát lên, mấy chữ gấm, hồng, rộng, cánh đều có vẻ “vần” với nhau. Như thế, khác với thơ để đọc, thơ để ca có thể “vần” thanh trắc và thanh bằng vào với nhau một cách thoải mái. Nhờ khai thác được quan hệ giữa lời và âm, nên anh dễ tìm ra vần. Cách khai thác vần này khiến các bài ca đâm ra dễ nghe, suông sẻ, phong phú. Đồng thời, do đi với nhạc, nên những vần “lai lai”, khi hát lên nghe vẫn thuận y như là vần thật. Thậm chí vần “lai lai” nghe còn thú hơn là vần quá thuận. Trong ca từ TCS, ta thấy anh “vần” những chữ như nhỏ - nọ - lạ - cỏ - do - giờ - đổ - chợ - thơ - lửa... hoặc thơm - tình - xanh - nhiên - yên - mình - tên - quên - mòn - điên - câm - đông - màng... Nhiều bản nhạc của anh chỉ có vài vần. Có bản, do chọn chữ và cấu tạo âm, ta nghe dường như chỉ có một vần độc nhất từ đầu đến cuối. Một số ca khúc nổi tiếng của anh có thể gọi là “ca khúc vần”, vần gần vần xa, vần trắc vần với vần bằng và ngược lại. Có lẽ nhờ thế mà nhiều ca khúc lời rất vô nghĩa, người ta không hiểu, nhưng vẫn thích hát. Có những bài, người ta “hát vần” chứ không “hát ý”. Hồi trước, tôi đã nhiều lần cười thầm một mình khi đi ngang qua một xóm nghèo, chợt nghe một cô gái ăn mặc lam lũ vừa bồng em vừa cất tiếng hát: “Gọi nắng, trên vai em gầy đường xa áo bay...” lẫn với “Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn...”

Trịnh Công Sơn tự nhận xét: “Ca khúc đối với tôi là một mô hình gần gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc”(8). Vâng, hôn phối giữa thi ca và âm nhạc. Đó là một lẽ. Theo tôi, nó còn là một cuộc hôn phối khác, hôn phối giữa Trịnh Công Sơn và thời đại của anh (và của chúng tôi). Không một chút chủ quan, tôi có thể nói thời đại chúng tôi là một thời đại đặc biệt chưa hề có trong lịch sử đất nước. Nó không dài, những cũng vừa đủ để tạo nên sắc thái hết sức đặc thù của nó. Đó là một giai đoạn bùng vỡ mọi mặt. Nguyễn Mộng Giác gọi giai đoạn đó là “mùa biển động” mà anh dùng đặt tên cho bộ trường thiên tiểu thuyết của anh. Vâng, mùa biển động! Liên tục động. Suốt 12 năm trời, từ cuối năm 1963 cho đến tháng 4/1975, miền Nam không khi nào yên tĩnh. Bom đạn, biểu tình, đảo chánh, pháo kích, giới nghiêm, bãi khóa, hội thảo. Các phong trào, đảng phái mọc lên như nấm. Các xu hướng chính trị, tôn giáo, triết học phát triển rầm rầm rộ rộ, có khi đi đến chỗ loạn xà ngầu: hiện sinh, cộng sản, Phật giáo, Thiên chúa giáo, tả khuynh, hữu khuynh, phân tâm, thiền, cách mạng tính dục. Cả một xã hội dường như trần truồng, lộ liễu, phơi bày toang hoác. Các tệ nạn xã hội được dịp phát triển kinh khiếp: tham nhũng, đĩ điếm, ăn cắp, giết người... Thời đại tướng lãnh sợ sinh viên, bộ trưởng sợ thầy chùa. Một giai đoạn lịch sử tự do, bung phá. Mọi tháp ngà bị đập vỡ. Mọi đường ranh bị băng qua. Tất cả các tiêu chuẩn chân lý bị xét lại. Xã hội đầy kịch tính. Tuổi trẻ đứng cheo leo trên đường biên. Thích thì làm, thích thì nói mà vẫn cảm thấy chênh vênh. Đó là thời kỳ của khai mở và bi kịch. Không chỉ là bi kịch của chiến tranh, sự đổ vỡ của mọi giá trị, mà còn là bi kịch của những yếu tố mâu thuẫn nội tại. Anh đớn đau nhận lãnh và thừa hưởng để biến thành nghệ thuật. Có những bi thảm của chiến tranh thì cũng có những ước mơ rực rỡ về hòa bình. Có cái đẹp của tình yêu thì cũng có cái bế tắc, tuyệt vọng của cuộc nhân sinh. Có cái nhẹ nhàng, giải thoát của thiền thì cũng có cái khắc khoải đớn đau của cảnh bể dâu. Có những bài ca kêu gọi chiến đấu thì cũng có những bài ca chán nản, tuyệt vọng đến cùng cực. Anh hít thở cái không khí tự do, đa dạng đó đồng thời cũng hít thở luôn cái không khí ngột ngạt, bế tắc của nó. Trong nhạc của anh, có đầy dẫy những nghịch lý của thời đại được diễn tả qua các khái niệm siêu hình: đỉnh cao/vực sâu, vô hạn/hữu hạn, có/không, còn/mất... Nói theo kiểu Tô Thùy Yên thì những ca khúc của TCS “như những tra vấn quyết liệt về đời người nhìn thấy qua một chuyến phiêu lưu của hữu hạn trong nghìn trùng vô hạn”(9) . Đặng Tiến khen TCS “có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài cũng không quá đáng”(10)

Có thể nói khác đi một chút: ca từ của TCS là một hôn phối giữa nhiều “nỗi” khác nhau: nỗi tuyệt vọng nhân sinh, nỗi phẫn nộ về chiến tranh, nỗi mơ ước về hòa bình, nỗi băn khoăn siêu hình, nỗi vui về tình yêu, đoàn tụ, gặp gỡ và nỗi buồn thăm thẳm của thân phận con người. Có lẽ vì thế mà dù thỉnh thoảng anh có “dao to búa lớn” la to những là hãy thế này, thế kia, cũng chỉ là “bốc đồng”. Anh rên rỉ, than thở và chỉ muốn ru: ru tình, ru đời, ru đêm, ru tình, ru em...Rốt cuộc, anh chẳng bao giờ có thể là chiến sĩ, mà chỉ là một nghệ sĩ.


IỊ Ngôn ngữ

Trong sự nghiệp sáng tác của TCS, ta thấy có hai giòng nhạc tách nhau rất rõ: giòng nhạc nói về chiến tranh và hòa bình và giòng nhạc nói về tình yêu, thân phận. Hai giòng nhạc khác nhau về nội dung đã đành, mà kỹ thuật diễn đạt, cách kết cấu ca từ cũng như nhịp điệu và âm thanh hoàn toàn khác. Như đã đề cập, nói chung, trong hầu hết những bài hát thuộc loại chiến tranh và hòa bình, anh viết bằng một lối viết rất hiện thực, kể cả khi mô tả những giấc mơ, những ước vọng. Hiện thực kinh khiếp đó được mô tả bằng chữ nghĩa sống động và đầy hình ảnh: trái tim rơi theo đại bác, thịt người cho thú nhai ngon, thịt xương đã phơi đồng xanh, đại bác ru đêm dội về thành phố....

Anh sử dụng những chi tiết cụ thể, có thể nghe, nhìn, đồng thời nâng chúng cao hơn, phóng lớn, mở rộng nghĩa. Hiện thực anh bắt gặp và ví von bất ngờ quá khiến ta đôi khi thảng thốt: mộ bia đều như nấm, chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò nằm chết như mơ...Trừ một số ít bài sử dụng ẩn dụ, còn lại thì ca từ rất “văn phạm”, nghĩa là có ý nghĩa cụ thể vì cấu trúc câu giản dị, dễ hiểu. Anh muốn gửi một thông điệp rõ ràng đến người hát và người nghe.

Mọi sự hoàn toàn khác hẳn khi ta bước vào tình ca và thân phận ca mà tôi gọi chung là nhân sinh ca. Tất cả bắt đầu chông chênh ở biên giới của chữ nghĩa, ý tưởng bởi vì có một sự pha trộn đặc biệt giữa nhiều hình ảnh và ý tưởng cũng như các ẩn dụ. Bửu Ý nhận xét: “...ta còn chứng kiến một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm thường, khả năng tưởng tượng bay bổng”(11)

Trước hết, ngôn ngữ ở đây là một thứ ngôn ngữ buồn và ray rứt. Anh tận dụng, và trong một số trường hợp có vẻ như lạm dụng, thứ ngôn ngữ đó. Đúng ra thì chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều bài hát khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu, vì nhiều bài hát, anh sống cùng một thức cảm thức: cô đơn. Ta nhiều lần bắt gặp những từ và cụm từ như: quạnh hiu, lênh đênh, trăm năm, giòng sông, gian nan, ăn năn, ngậm ngùi, hoang mang, hoang phế, mỏi mòn, hư hao, mệt nhoài, buồn tênh, rong rêu, đời, chơi, vui, cuộc tình, vai gầy, gầy guộc, buồn phiền, ưu phiền, cội nguồn...Nhiều cụm từ có chữ đá: đá buồn, sỏi đá, đá cuội, bia đá, cồn đá. Một số từ trong triết học Phật giáo: vô thường, tiền kiếp, từ bi, cõi tạm, hư không...Tất nhiên, những từ trên không có gì là lạ trong ngôn ngữ Việt và nhiều người đã dùng. Nhưng ở đây, cái lạ là cách kết hợp thành những cụm từ và cách sử dụng các từ đó trong các đơn vị câu để tạo nên những hình ảnh, biểu tượng với ý nghĩa từ mới đến hoàn toàn mới và rất nhiều khi tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về mặt âm thanh: tuổi/ đá/buồn, cồn/ đá, môi/hờn, bàn tay xanh xao/đón/ ưu phiền, nắng/khuya, mặt trời/ngủ yên, hạt/từ tâm.

So với những ca từ viết về chiến tranh, sự khác biệt rất rõ nét. “Xác người nằm trôi sông” thì ta hiểu ngay nhưng “tuổi đá buồn” chữ nghĩa nghe kỳ quặc, lạ hoắc và vô nghĩa. Một bên thì “mặt trời sáng trên quê hương” một bên thì “nắng khuya”. Hoặc “dài tay em mấy...”. Gì vậy? Có phải là “có mấy thuở tay em dài và mắt em xanh xao”? Mà nếu thế thì là gì ? Nothing. Ấy thế mà ta cứ hát và cái lạ là hình như nó vẫn có nghĩa. Cứ hát. Và rồi nó có nghĩa thật! Thực ra thì anh dùng cách kết hợp các từ ngữ xuất phát từ những ý tưởng khác xa nhau. Thay vì phải giải thích dài dòng, anh cột chúng lại, buộc chúng phải ở với nhau: tuổi (tuổi đời, tuổi em, tuổi xuân, tuổi ngọc, lứa tuổi...) + đá (đá cuội, đá sỏi, bia đá, cứng như đá, vô tình như đá, lạnh như đá...) + buồn. Tóm lại chỉ để diễn tả nỗi buồn sâu lắng của một thời tuổi trẻ.

Hãy nghe TCS giải thích về bài Diễm xưa: “Nhưng thật sự, thật và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia” ... “Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian”... “Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường .Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định”(12)

Phải mẫn cảm lắm mới nhận ra điều gọi là “đi đến trường” mà như “đến một nơi vô định” như thế. Đúng ra, tôi nghĩ, cô gái biết rõ mình đi đến đâu, chỉ có kẻ ngồi ngóng “những chuyến mưa qua” mới là...vô định. Và suốt đời, đây đó, anh ta luôn luôn vô định. Để diễn tả cái hình ảnh và cái cảm giác vô định đó, anh tạo ra một thứ ngôn ngữ mới lạ, không hệ lụy vào những ý nghĩa bình thường có sẵn ta vẫn quy cho chúng. Ngôn ngữ ở đây có tính tạo hình, tạo âm và trong chừng mực nào đó, là một thứ ngôn ngữ “vô ngôn”. Ca từ chỉ còn là sự ghép những hình ảnh, ý, chữ chợt bắt gặp, chợt rơi vào trí tưởng. Nói một cách khác, không nhất thiết phải dán cho chúng những ý nghĩa cụ thể nhất định nào. Cứ để chúng tan vào âm thanh, trôi tuột giữa chữ và chữ với nhau. Chữ cuốn theo chữ. Âm cuốn theo âm. Hình cuốn theo hình. Khi nghe câu hát mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ dài tay em mấy thuở mắt xanh xao, tôi nghĩ đến một bức tranh siêu thực: hình ảnh của một cô gái nằm vắt ngang giữa rừng cây mưa, giữa đền đài lăng miếu cũ buồn tênh, tay dài ngoẵng và mắt thì sâu thẳm. Buồn! Bất tuyệt buồn! Có phải anh đã vẽ trong khi làm thơ và sáng tác ca khúc? Hát “Tuổi đá buồn” hay “Ru em từng ngón xuân nồng” cũng thế, tôi vẫn thường hình dung những chi tiết nào đó của một bức tranh: một đôi mắt, một vệt màu, vài nét chấm phá vu vơ, một lối đi hoang vắng hun hút dài, những sợi mưa mà như không mưa, mái tóc dài tung bay lòa xòa dưới bầu trời xám đục...Và tưởng tượng đến một bức tranh khiến tôi thâm cảm được thêm chất liệu ẩn dấu đàng sau ngôn ngữ của anh, từ gót chân trần em quên em quên cho đến tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm...

Cái chất “vô ngôn” (tiến đến phá ngôn) của TCS đạt đến đỉnh cao trong “Dấu chân địa đàng”, “Vết lăn trầm”. Những là loài sâu ngủ quên trong tóc chiều, bài ca dạ lan như ngại ngùng, loài sâu hát lên, từ vào trong đá xưa, tóc xanh vầng trán thơ, loài rong rêu ngủ yên. Trừu tượng hơn: hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền, bồn gió hoang, chờ ta da du một chuyến, bài ca dao trên cồn đá. Toàn là những cụm từ kết hợp vô định, tình cờ, hình ảnh loải choải, nhảy vọt bất ngờ, thậm chí có vẻ ngây ngô, vô nghĩa y như một kẻ ưa làm dáng chữ nghĩa. Đã thế, không giống như những bài khác về sau, nhạc ở đây ngúc ngắt, thiếu hẳn cái nét trơn tru mềm mại của giòng nhạc “chính thống” TCS. Lối viết nhạc và lời kiểu này khá hiếm trong toàn bộ nhạc TCS. Chúng được sáng tác trong thời kỳ đầu và không hề thấy xuất hiện về sau này. Có lẽ vì anh hết cảm hứng hay vì nó khó đến với công chúng, nói chung?

Ngôn ngữ ở những bản nhạc này không đóng chức năng bình thường của ngôn ngữ là tạo nghĩa và tạo ý. Y như trong hội họa hiện đại, chúng chẳng khác gì một loại tranh “cắt dán” (collage). Trong thực tế, theo như cảm nhận riêng của tôi, hai bài ca trên là nỗi khắc khoải có tính chất siêu hình của TCS. Đó là một khắc khoải không chỉ về thân phận, mà về cái tuyệt đối, về một thời hồng hoang đã mất, về một chới với trong cõi vô biên, từa tựa như Trần Tử Ngang:

Tiền bất kiến cổ nhân
hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
độc sảng nhiên nhi lệ hạ


Khắc khoải của Trần Tử Ngang có tính trực giác, còn khắc khoải của TCS lại nhuốm mùi duy lý. Có thể nói đó là một khát khao bất tuyệt về một thiên đàng, không phải đã mất, mà không hề có. Nhiều lần, hát “Vết lăn trầm”, đến chỗ bài ca dao trên cồn đá..., âm thanh vút cao lên, khiến lòng chợt chới với, hụt hẫng, đau đáu một nỗi đau mênh mang khó tả!

Phải nhận rằng, cách cấu tạo ngôn ngữ TCS tài hoa, táo bạo và lạ. Trong quá trình tạo vần cho phù hợp với âm và với nét nhạc, anh “bật” ra những tứ, những ý, những hình ảnh và ngôn ngữ hết sức bất ngờ, mới lạ đôi khi khiến ta sửng sốt y như chúng từ trên trời rớt xuống. Đọc hoặc hát và nghe hát đi hát lại hàng bao nhiêu lần mà cảm giác sửng sốt và mới lạ vẫn còn tươi rói y như mới nghe lần đầu.


- Lùa nắng cho buồn vào tóc em
- Nhật nguyệt trên cao ta ngồi dưới thấp
một đường cong queo, nắng vàng đột ngột

- Lòng tôi có đôi khi tựa bông hoa vừa mọc hân hoan giây xuống thế - Chợt nắng long lanh chợt nắng thưa
- Tặng hết cho tôi một phố chờ

Còn nhiều. Ngoài nhiều từ lặp đi lặp lại, hầu như bài nào cũng có những ý, những chữ hoặc những tứ thật bất ngờ, và lạ như thế. Mặc dù ý cũ, rất cũ nữa là khác hoặc là cùng một ý anh lặp đi lặp lại qua nhiều bài hát khác nhau. Cũng là mô tả sự cô đơn, mất mát, sự xao xuyến trước cuộc lữ, sự bất lực của con người trước thời gian, ám ảnh triền miên về cái chết. Chữ nghĩa anh dùng cho ta những hình ảnh mới. Thậm chí, mới toanh. Chữ nghĩa trông dễ dàng đối với anh y như chúng nằm sẵn đâu đó chỉ đợi có cơ hội là tuôn ra. Vừa lạ, vừa thú vị. Này nhé, hãy nghe anh viết: Xin đứng yên trong chiều - Treo tình trên chiếc đinh không. Chữ nghĩa dùng thì có khác nhưng rõ ràng là ý tứ chưa có gì mới lạ, hình ảnh bình thường. Ta khoái, nhưng khoái đại khái. Bỗng nhiên tiếp theo đó:

gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong, ta lăn đời đã quá
Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng

Nghe đã thật! Còn nữa. Này nhé, ta đang nghe: Ru trên đường em đến Xôn xao từng tiếng chim . Ru em là cánh nhạn. Bỗng, anh hạ bút:

Miệng ngọt hạt từ tâm
Hoặc là: Vườn khuya đóa hoa nào mới nở. Đời ta có ai vừa qua. Bỗng:

Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ
Tôi nghĩ quanh đây hồ như

Ô hay! Sao hai chữ “hồ như” lại rơi vào đây? Chữ “trông như” chẳng có nghĩa gì ráo, mà làm sao nó khiến cho lòng mình bề bộn thế này! Bốn câu vừa trích là từ bản nhạc “Đêm thấy ta là thác đổ”, một trong những bài hát rất hay của TCS. Bản nhạc điệu “blues” nhẹ, gam La thứ là gam ruột của chất nhạc TCS. Nếu tách hẳn ra thì là một bài thơ hoàn chỉnh mà ông Hoàng Ngọc Hiến bảo là bài thơ hay nhất thế kỷ!(13)

Ngoài ra, như trên đã đề cập, một đặc điểm khác rất dễ nhận thấy và hầu như chủ yếu trong ca từ TCS: tính chất “vần”. Nhờ vần, ca từ trơn tru, êm đềm từ đầu đến cuối bản nhạc, nghe như một tiếng thở dài nho nhỏ với nhiều hình ảnh đan xen lẫn nhau. Có cái liên hệ, có cái đứt đoạn. Tôi chợt “ngộ” một điều: những từ ngữ và hình ảnh mới thường nằm ở cuối đoạn nhạc hoặc ở cuối câu. Và cuối câu thì phải “vần”, hoặc với từ cuối câu kế hoặc với từ cuối câu trước đó. Chính đòi hỏi đó làm “bật” ra những từ ngữ và hình ảnh mới. ở đây, ta thấy, nhờ âm mà anh đã tạo ra lời, âm thanh là “tiềm năng” của lời.

Phải chăng đó là một trong những bí quyết của Trịnh Công Sơn trong việc sáng tạo ra ca từ độc đáo của anh?


III. Những bài ca về chiến tranh và hòa bình

Vào cuối năm 1968 hay đầu năm 1969 (tôi không nhớ rõ), tôi ghé thăm TCS, lúc đó đang ở trọ tại một căn gác lửng trên đường Võ Tánh gần nhà thờ Huyện Sĩ. Anh khoe với tôi một mẩu tin đăng trên tờ Le Monde (Pháp) viết về anh. Tờ báo gọi anh là một nhạc sĩ “anti-guerre” (phản chiến). Trông bộ anh rất khoái. Khoái mẩu tin và khoái cái từ “phản chiến”.

Trịnh Cung cho rằng “Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ “phản chiến” không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án”(14) .

Tô Thùy Yên: “...có vài người tâm hồn giản dị đã vội kết luận rằng những ca khúc này của anh là những tác phẩm phản chiến để buộc tội anh về những tác dụng nguy hại của chúng đối với đám đông trong giai đoạn nghiêm trọng này của đất nước”... “Nghệ thuật khi đã hình thành, là một nhận thức bao quát về đời sống, là cánh hồng bay bổng tuyệt vời, chớ đâu phải là con gà què ăn quẩn cối xay”(15)

Từ “phản chiến”, theo tôi, tùy cách nhìn, mà ý nghĩa nó khác. Và cũng tùy cách giải thích.

Tôi đồng ý với cách giải thích sau đây của nhà thơ Sương Biên Thùy, một sĩ quan tác chiến thời VNCH. Tuy cực lực lên án thái độ đầu hàng nhà nước Cộng Sản của TCS sau tháng 4/1975, nhưng anh thừa nhận: “Phản chiến là chống chiến tranh tức là chống những người gây ra chiến tranh. Tôi không thấy TCS có lỗi gì hết với những sáng tác của anh được mệnh danh là phản chiến. Thêm vào đó, tôi không thấy có gì tác hại tiêu cực lên tinh thần người lính từ những bản nhạc phản chiến của anh, trong đó có tôi” ... “Sau một cuối tuần nghỉ phép, ngồi trước cốc cà phê, miệng ngậm điếu thuốc lá quân tiếp vụ, nghe giọng hát Khánh Ly và nhạc Trịnh Công Sơn, hôm sau trở lại đơn vị, tiền đồn, tinh thần sảng khoái, trí óc minh mẫn...”(16)

Hồi đó, trong lúc miền Bắc hừng hực trong cơn sốt chiến đấu với những lời hô hào “chiến đấu”, “nhắm thẳng quân thù mà bắn”, “giết”, “tiến công”, “tiêu diệt”..., nghĩa là không dung dưỡng bất cứ một thái độ tiêu cực nào, thì miền Nam sống trong không khí khốc liệt của chiến tranh và khát vọng hòa bình. Khát vọng này không riêng biệt cho bất cứ ai, từ người lính ngoài chiến trường cho đến những bà mẹ ở thành phố, vì không có ai thoát khỏi những di lụy của cuộc chiến. Nếu gọi là phản chiến, ta có thể nói hầu như cả miền Nam đều phản chiến, dưới nhiều hình thức khác nhau: lính đào ngũ, lính kiểng, lính ma, hoãn dịch học vấn, hoãn dịch gia cảnh, hoãn dịch vì công vụ, chạy chọt để được vào quân cảnh, cảnh sát, chạy chọt đi nước ngoài, những cuộc xuống đường đòi hòa bình của Công giáo, Phật giáo, báo chí tràn ngập những phân ưu lính chết trên chiến trường hằng ngày. Đó là chưa kể đến các tác phẩm văn chương. Chỉ trừ những tài liệu tuyên truyền, hầu hết những tác phẩm thơ văn đều không ít thì nhiều, cách này hoặc cách khác lên án chiến tranh và mô tả những bi kịch thảm khốc của chiến tranh không che giấu. Nhiều nhà văn, nhà thơ là lính hoặc làm việc trong các cơ quan nhà nước VNCH, khi viết những bài tuyên truyền thì viết như là một cán bộ, công chức mẫn cán, nhưng khi viết như một nhà văn, tác phẩm của họ cũng mô tả hiện thực chiến tranh và cách này hay cách khác, lên án chiến tranh. Và tất nhiên, người ta vẫn hát nhạc TCS. Đúng ra, không ai cảm thấy hát nhạc TCS là một cái tội. Vì quả thật, những gì TCS nói lên qua ca khúc của anh đều là nỗi lòng và mơ ước chung của mọi người.


Thực cảnh chiến tranh


Với tài hoa riêng, anh đã mô tả chiến tranh bằng một bút pháp hiện thực, với những chi tiết hiện thực rất đậm đà, rất sống, rất sắc. Khác với những ca khúc về tình yêu và thân phận, những bài ca chiến tranh sử dụng một thứ ngôn ngữ đời thường, nhiều khi chẳng khác gì những bài tường trình về chiến trận. Ca từ khá gần gũi với truyện, ký. Theo anh, đất nước ta luôn luôn sống trong lệ thuộc và chiến tranh: đánh Tàu, đánh Tây và nội chiến. Đất nước luôn luôn là bãi chiến trường:

Dân ta đã bao nhiêu năm, đầu đội bom bước đi mong manh

Tầm đạn bay nhức đau trong xương nhìn trái tim treo trên đầu súng

Một đời nước mắt chan cơm...

Chiến tranh là bức hoành tráng toàn một màu đỏ ghê khiếp:

Bao năm, máu như sông trôi thành nguồn

Máu đã khô trên ruộng đồng, máu âm u trong rừng rậm

Tràn đầy xác người:

Xác người năm trôi sông, trôi trên ruộng đồng

Trên nóc nhà thành phố, trên những đồi hoang vu

Nhân đây, ta thử đọc lại vài giòng thơ viết về chiến tranh của một nhà thơ khác cùng thời với anh, Tô Thùy Yên chẳng hạn:

Tiếp tế khó - đôi lần phải lục

Trên người bạn gục đạn mươi viên

Di tản khó - sâu dòi lúc nhúc

Trong vết thương người bạn nín rên

Người chết mấy ngày chưa lấy xác,

Thây sình, mặt nát, lạch nương tanh

(Qua sông)

một đoạn khác:

Ta chắt cho nhau giọt rượu sót

Tưởng đời sót chút thiếu niên đây

Giờ cất quân, đưa tay ra bắt

Ước cõi âm còn gặp để say

(Anh hùng tận)

Hay Trần Hoài Thư:

Chiến trường thì cũng thây người chết

Cũng là biển lệ cũng hờn căm

Trường Sơn chưa dứt cơn kinh động

Đồng Tháp dòng kênh máu đỏ ròng

(Quán gió đồng bằng)

Cũng là nói về thảm kịch chiến tranh, nhưng những đoạn thơ trên là của những người lính, những người trực tiếp tham dự cuộc chiến. Rõ ràng là không ai muốn chiến tranh cả. Nhưng mỗi người nhìn bi kịch từ một chỗ khác. TCS ở thành phố, anh không tham dự cuộc chiến, anh từ chối nó. Hay nói cho đúng hơn, anh may mắn không rơi vào cái bẫy chiến tranh. Là một outsider, anh không cảm nhận được cái bi tráng đặc thù của người lính miền Nam trước giờ cất quân ra chiến trận, hết rượu, còn hẹn nhau về âm phủ nhậu tiếp như trong “Anh hùng tận” của Tô Thuỳ Yên!

Nhưng outsider vẫn có cái đau của outsider! Do thế, TCS tìm cách nói những điều mà người lính không nói, hoặc nói một cách khác. TCS đi sâu hơn vào thực cảnh và tâm tình của người thành phố, những kẻ ở hậu phương, tuy không trực tiếp chịu đựng cảnh máu chảy đầu rơi, nhưng tác động của nó cũng ghê gớm bội phần. Đó là cảnh một cô gái trở nên điên kêu gào vô vọng trên đường phố vì có người yêu là lính chết mất xác ở một trong những trận đánh nào đó hay là cảnh “đại bác đêm đêm dội về thành phố” mà anh gọi bóng bẩy là “đại bác ru đêm”. Những cảnh đó ồn ào. Có những cảnh lặng lẽ hơn nhưng không kém phần xót xa, nhức nhối:

Em đi qua cầu, có gió bay theo thổi bùng khăn tang, trắng giữa mây chiều

..Em đi qua cầu chở chiều trên vai ngậm buồn trên môi

Một cảnh khác:

Ghế đá công viên dời ra đường phố

Người già co ro chiều thiu thiu ngủ

Người già co ro buồn nghe tiếng nổ

Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi

Một khung cảnh phố chợ đìu hiu, nghèo nàn, tan nát trong những năm biến loạn miền Trung 1965-1966 khi máu lửa chết chóc bao trùm toàn bộ đất nước. Thật sống động và bi thiết!


Kêu gào tranh đấu


Trong nỗi bi phẫn vì chiến tranh, anh lên tiếng kêu gào tranh đấu đồng thời nói lên những khát khao về hòa bình. Khác với “Ca khúc da vàng”, hai tập “Kinh Việt Nam” và “Ta phải thấy mặt trời” gồm toàn những ca khúc mang tính đấu tranh và đầy niềm tin về tương lai. Ca từ và nhạc hùng hồn, thúc giục. Một số đoạn nhạc có những luyến láy đặc biệt, rõ ràng là chịu ảnh hưởng của lối viết nhạc chiến đấu miền Bắc.

- Em đã thấy các anh lên đường

Những tay trần làm cơn bão lớn

Cùng đứng bên nhau, triệu bước nôn nao

Biểu ngữ giăng cao...

- Xin anh chị hãy vùng lên, đời sống này đầy bóng tối

Triệu anh em chia sớt nguy nan, xây cách mạng dựng

đời người mới

- Anh bước đi, tôi bước đi, em với chị bước theo

Tìm Việt Nam xưa yêu dấu

Ta đi trong cách mạng tự hào

Trong một vài bài, anh còn hô hào “đứng lên”:

Chính chúng ta phải nói hòa bình ...Anh em quyết lòng,

đứng lên!

Hơi hướm của những bài nhạc như thế rõ ràng chẳng khác gì mấy so với bài “Dậy mà đi”, thơ phổ nhạc của Tố Hữu, trông ra còn “mạnh” hơn nhiều so với những bài do các tác giả thuộc phe Cộng Sản sáng tác lưu truyền trong sinh viên học sinh trong sách lược “SVHS vận” như bài “Tự nguyện” chẳng hạn:

Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng

Nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa hướng dương

Những bài ca của TCS trong hai tập này chẳng khác gì những bài ca xung trận. Anh hô hào, kêu réo, thúc giục. Điệu nhạc 2/4 khi thì hùng hồn, khi thì tha thiết. Ca từ khi thì mạnh mẽ như phá ngục tù, đứng dậy, cách mạng, bước đi, vùng lên, tự hào...khi thì rộn ràng phấn khởi như: mặt đất rung rinh, ba miền thống nhất, triệu người, trăm con phố, trăm câu nói, triệu lá cờ, triệu người qua, anh bước đi, em bước đi, anh với chị bước theo...

Ca từ nói trên có tính cách chung chung không ám chỉ rõ rệt phe nào. Chính vì thế mà nhạc của anh chẳng được chế độ VNCH chấp nhận, dù trong thực tế, chúng vẫn được phổ biến không hạn chế trong sinh hoạt của mọi tầng lớp xã hội. Mặt khác, Cộng Sản cũng chẳng mấy ưa vì tính chất mập mờ của chúng.


Khát vọng hòa bình


Cần ghi nhận, hầu hết những hô hào đó không phải là hô hào chém giết, mà là hô hào chiến đấu cho hòa bình. Anh vẽ vời ra hình ảnh một đất nước sau chiến tranh rất huy hoàng, như một bức hoành tráng với cảnh triệu người đổ ra phố phường, say sưa ca hát, tay bắt mặt mừng, lòng căm thù “chìm sâu”, biến mất, không còn nhà tù, nhân dân thoát cùm gông. Hãy nghe anh tưởng tượng, trước hết, một đất nước Việt Nam không còn hận thù:

Đạn bom ơi, lòng tham ơi, khí giới nào diệt nổi dân ta

Việt Nam ơi bừng cơn mơ, cho mắt nhìn sạch tan căm thù

Trong một đất nước như thế, mặt đất sẽ “rung rinh bước triệu người, phá ngục tù đi dựng ngày mới”, với cảnh:

Ta sẽ chiếm trăm công trường, ta xây nên nghìn phố hòa bình

và:

Thuyền ngược xuôi trăm ghe chèo con nước lớn

Con người thực hiện được giấc mơ phục sinh:

Tìm lại thanh xuân cho chị hồng đôi má

Tìm lại đôi vai em về gánh xuân nồng

Tìm lại thơ ngây cho một bầy em bé

Tìm lại đôi chân cho người lính trở về

Một trong những hình ảnh (và có thể là nỗi ám ảnh) của anh là mặt trời. Tương lai tươi sáng đồng nghĩa với mặt trời:

- Bao nhiêu năm nhục nhằn đã qua, hôm nay thấy

mặt trời rực sáng...

- Trên cánh đồng hòa bình này, mặt trời yên vui lên đỏ chói

Anh cụ thể hóa khung cảnh hòa bình bằng nhiều chi tiết rất cụ thể:

Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng cao

Vác những cây rừng to về nơi đây ta xây dựng nhà

Một đất nước phát triển:

Trường học dựng mọi nơi...

Bệnh viện đầy niềm tin

Chợ người về càng đông

Nông nghiệp phát triển:

Đời dân ta cần lao, mồ hôi đã thắm trong ruộng sâu

Ngày mai đây rừng hoang thành bãi lúa quyết nuôi dân nghèo

Và giấc mơ này thì thật “vô tiền khoáng hậu”:

Đường đi đến những nơi lao tù

Ngày mai sẽ xây trường hay họp chợ

Dân ta về cày bừa đủ áo cơm no

Một đất nước phát triển, không có lao tù,nhân dân no ấm, trời ơi, có giấc mơ nào đẹp hơn thế! Và thực tế lịch sử mấy chục năm không chiến tranh vừa qua dưới chế độ Cộng sản cho thấy, chẳng có giấc mơ nào viễn vông hơn thế!


“Ta phải thấy mặt trời” và “Xin mặt trời ngủ yên”


Những bài ca trích dẫn trên, nhiều bài, nhiều đoạn chẳng khác gì một một hồi trống thúc quân. Anh kêu gọi mọi người xuống đường, đứng dậy, tiến lên. Y như một chiến sĩ xung kích, sẵn sàng lao đầu vào cuộc chiến đấu. Mặt khác, trong nhiều bài, ca từ đầy chất lạc quan.

Những nhạc khúc trên “rất” TCS (vì chỉ có anh mới sáng tác loại ca khúc này) mà cũng lại (theo cảm nhận của riêng tôi) có vẻ rất “không” TCS. ồn ào thế, hùng tráng thế, nhưng vẫn có cái gì gượng gạo, không ổn. Nhiều đoạn nghe ra như nhạc “phong trào”. Dù không nghi ngờ gì về nỗi phẫn nộ cũng như khát khao của anh, tôi vẫn cảm thấy chúng bị điều kiện hóa bởi những biến cố thời sự và bị thúc bách bởi một hoàn cảnh tâm lý đặc biệt nào đó. Do thế mà, dù được hát và được phổ biến, chúng không trở thành phổ thông và đi sâu vào lòng người như những bài tình ca và thân phận ca. Đàng sau những lời lẽ hùng hồn đó vẫn thấp thoáng một cảm thức tuyệt vọng, như sau này ta sẽ thấy trong tập “Phụ khúc Da vàng”:

...Đường anh em sao đi hoài không tới

Đường văn minh xương cao cùng với núi

Đường lương tâm mênh mông hoài bóng tối

Trái đau thương cho con mới ra đời

Có nghĩa là, theo tôi, ẩn nấp dưới những ca từ “đao to búa lớn” của Kinh Việt Nam và Ta phải thấy mặt trời, vẫn là giòng nước mắt, là nỗi ưu tư nhân thế, là tâm trạng đớn đau cùng cực của thân phận nhỏ bé, yếu hèn. Vẫn là hạt bụi, vẫn là nỗi khắc khoải siêu hình miên viễn trước cuộc nhân sinh. Tất cả cái “vẫn” đó tạo thành chất sâu lắng, tha thiết của “Thần thoại quê hương tình yêu và thân phận” sáng tác trước đó. Hay nói một cách khác, đàng sau lời hô hào “ta phải thấy mặt trời” là một lời van vỉ thống thiết bất tuyệt:

Mặt trời đã ngủ yên

xin mặt trời hãy ngủ yên

Con người mãi mãi vẫn là một thân phận:

Cúi xuống cho bóng đổ dài cho xót xa mặt trời

Anh xin đủ thứ: xin tình yêu, xin lại cuộc đời, xin chuyện tình, xin nguyên vẹn hình hài, xin yên phận này thôi. Trong lúc bên kia anh giục giã, thúc bách hãy vung cao biểu ngữ, thì ở đây:

Giọt nước mắt quê hương ôi còn chảy miên man

ôi giòng nước mắt chảy hoài

giòng nước mắt đời đời...

Thân phận con người quá nhỏ nhoi bé bỏng, bất lực:

Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù

Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần

...Người đứng đó như trăm năm vết thương chưa mờ

Người mẹ là hình tượng của một nỗi buồn bất tuyệt:

Mẹ ngồi trăm năm như thân tượng buồn để lại quê hương

Một khung cảnh hậu chiến hoang liêu như thuở tạo thiên lập địa:

Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại thuở hồng hoang

đã thấy đã xanh ngời liêu trai

còn có ai trên cuộc đời ôi nhân loại còn người

và tôi thôi rồi lang thang như mây trời

Chiến tranh, quê hương, tình yêu và thân phận cuộn xoáy vào với nhau để tạo thành bi kịch. Cùng lúc với Kinh Việt Nam và Ta phải thấy mặt trời hoặc sau đó không lâu là Như cánh vạc bay, Khói trời mênh mông, Cỏ xót xa đưa. Rốt cuộc, căn phần của anh, thực chất của anh là một kẻ suy gẫm về nỗi cô đơn, một tên hát rong suốt đời lang thang, buồn bã. Những hô hào của anh, những reo hò của anh, những reo vui của anh chỉ là “vui gượng kẻo mà”. Chiến tranh cũng là bi kịch nhân sinh, như mọi bi kịch khác. Nó là thành phần của bi kịch đó. Bởi thế mà, mặc cho có những lúc anh tở mở reo hò, hòa bình hay không, còn chiến tranh hay không, thân phận anh vẫn thế. Vẫn là một thân tượng buồn!

Vẫn là:

Trên đời người trổ nhánh hoang vu

Trên ngày đi mọc cành lá mù

Những tim đời đập lời hoang phế

Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê

...Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ

Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.

Mặt trời vẫn ngủ yên cho anh tiếp tục hát hôn mê. Mãi mãi hôn mê! Và chính cái hôn mê đó đã tạo thành một TCS khác, mang anh đi vào vĩnh cửu.


IV. Nhân sinh ca - mấy hình tượng chính.


Như đã trình bày ở phần trên, tôi gọi chung những bài tình ca và thân phận ca TCS là nhân sinh ca. Ta có thể tổng quát hóa các hình tượng chính trong nhân sinh ca của TCS như sau:



EM



CõI THế TÔI



Em là ngôi vị để chỉ người tình. Có thể là một người tình cụ thể (như Diễm, Lộc...) mà cũng có thể là người tình tưởng tượng. Và cũng có thể chỉ là một khái niệm, một bóng dáng, một hình ảnh, một sản phẩm thuần túy tưởng tượng. Nhưng đàng nào thì cũng là một người nữ.

Tôi là chủ thể, là tự ngã. Có khi Tôi trở thành Ta. Trong hầu hết ca khúc, cái Tôi đây không chỉ riêng một TCS cụ thể với những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt, mà là một thân thế, một hiện sinh, một số kiếp. Tôi, hầu hết là chỉ người nam, nhưng có khi là con người nói chung. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, thì rõ ràng Tôi là con người, nam và nữ. Trong thực tế, nhiều khi là nam, nhưng ý muốn nói là con người.

Cõi thế (hay “cõi đời” hay “một cõi đi về”) có thể là người đời hay đời người hay những đối vật gần gũi tham dự trong kiếp hiện sinh, tồn tại bên cạnh mỗi người, bên cạnh cái Em, bên cạnh cái Tôi, trong cái Em, trong cái Tôi hoặc tạo thành cái Em, cái Tôi: giòng sông, ánh nắng, con trăng, bông hoa, con đường, góc phố với những liên hệ xa gần với Em, với Tôi, với người đời và đời người. Cõi thế, như thế, là nơi chứa chấp Em và Tôi và người đời như những thân phận. Thành thử, ta không ngạc nhiên khi thì anh ru Tôi, rồi ru Ta, rồi ru đời, rồi ru người.

Tương quan giữa Em và Tôi tạo thành cái được gọi là tình yêu, nỗi nhớ, sự tiếc nuối, nỗi buồn, sự mất mát, lòng mong ước và là nguồn cảm hứng bất tuyệt cho những bản tình ca Trịnh Công Sơn.

Tương quan giữa Tôi và Cõi thế tạo nên cái mà Trịnh Công Sơn gọi là “một cõi đi về”, là nguồn gốc của mọi bi kịch, của thân phận, là nỗi tuyệt vọng không cùng, đeo đẳng gần suốt sự nghiệp và cuộc đời của Trịnh Công Sơn. Có những giai đoạn, tương quan đó trở nên “bất bình thường”, anh bị “vong thân”, nghĩa là bị ném ra khỏi cái Tôi cố hữu của anh. Tôi biến thành cái Ta, thành cái Chúng ta. Đó là cái Tôi trong một số bài của “Ca khúc da vàng”, của hai tập “Kinh Việt Nam” và “Ta phải thấy mặt trời”, tóm lại là cái Tôi đặc biệt trong những bài ca nói về chiến tranh, về cuộc tranh đấu cho hòa bình, về mơ ước xây dựng lại đất nước vân vân. Đó cũng là cái Tôi của giai đoạn sau này khi sống dưới chế độ Cộng Sản. Giai đoạn trước, những lời tâm sự biến thành những lời than van, gào thét, lên án và những mơ ước rực rỡ nhưng viển vông. Giai đoạn sau thì cái Tôi cũng trở thành cái Ta hoặc biến mất trong cái Ta chỉ để... “sống còn”. Cái trước nghe còn có chút gì là của anh, cái sau hoàn toàn vong thân, biến tính. Để hiểu cái tính cách “sống còn” này của TCS, có lẽ không có gì cụ thể thể hơn là đọc trích đoạn sau đây của Nguyễn Duy, một nhà thơ trong nước, viết về anh vào năm 1987:

“Một số ca khúc mới của TCS, sáng tác từ cảm hứng trước hiện thực mới, đã được công chúng lan truyền rộng rãi, trong đó, bài “Em ở nông trường, em ra biên giới” được đáng kể là cái mốc đánh dấu chặng đường mới của anh. Anh đã thật sự “bắt” vào mạch đời sống hiện thực mà vẫn giữ được cái giọng riêng, cái bản sắc tươi sáng. Một vài năm trước 1975, anh hơi sa đà vào mạch thiền, bắt đầu có dấu hiệu lẩn quẩn (...). Chính hiện thực đời sống đã giúp anh “trẻ lại”, anh đi nhiều, sáng tác và hát, ở nhà trường, công trường, nông trường, ở các tụ điểm sinh hoạt xã hội của thanh niên, sinh viên và trí thức thành phố, lên biên giới, ra biển khơi, vào tận bưng biền Đồng Tháp Mười. (...). Với anh, có thể kể ra hàng loạt những bài hát được nhiều người ưa thích “Em còn nhớ hay em đã quên”, “Chiều trên quê hương tôi”, “Huyền thoại mẹ”, các bài hát trong phim “Pho tượng”, phim “Y võ dưỡng sinh”v.v...đều là những bài nhạc và lời tương sinh như xác với hồn, những chi tiết hiện thực đời sống được nâng lên trong xu hướng vươn tới cái đẹp lâu bền”(17). Giọng điệu Nguyễn Duy nghe ra có vẻ thật tình, chắc cũng giúp được TCS trong giai đoạn xoay sở để “sống còn” này. Chẳng có gì là lạ, ai cũng muốn sống còn cả mà!

Có lẽ chính vì nhận ra cái tính chất giai đoạn, tính chất “bất bình thường” của chúng mà trong tuyển tập “Những bài ca không năm tháng” của anh không có những bài ca tuyệt hay về chiến tranh và mơ ước về hòa bình, lại càng không có một số bài ca được sáng tác với mục đích “sống còn” này. Chỉ trừ bài “Em ra đi nơi này vẫn thế”, tuy phảng phất hơi hướm tuyên truyền, nhưng vẫn là một bài đầy chất tâm sự. Phải chăng anh đã xem chúng như là những bài ca “có năm tháng”, không thể hiện đúng ý hướng của anh là “Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi người”?.(18) Cũng không có cả “Nối vòng tay lớn”, bài hát đã để lại một kỷ niệm chẳng mấy vui cho những người yêu mến anh.

Bùi Bảo Trúc, trong một bài viết khá công phu về Trịnh Công Sơn, đã nhận định: “...nhìn lại những nhạc phẩm mà người ta được nghe của ông, thì tình yêu là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn”. Bởi thế, theo ông, “Trịnh Công Sơn, thủy chung vẫn chỉ ở với nhạc tình. Bài ca đầu tiên và cuối cùng của ông đều là những tình ca. Trong một chiều dài một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công Sơn viết nhiều nhất vẫn là nhạc tình”(19). Nhạc tình. Có thể là như thế. Nhưng tôi không cho rằng ám ảnh lớn nhất đối với Trịnh Công Sơn là tình yêu, mà là thân phận con người, là cuộc hiện sinh. Dấu vết của ám ảnh đó hầu như xuyên suốt trong gần như tất cả nhạc phẩm của anh. Vâng, anh nói rất nhiều về tình yêu, anh nhắc nhở rất nhiều về Em, về một (những) người nữ nào đó đi qua trong đời anh, về hẹn hò, về chia xa, nhưng lúc nào cũng bàng bạc trong đó những khắc khoải khôn nguôi về phận người. Tình yêu là một mặt khác của bi kịch thân phận. Ta thấy rất rõ, qua tình ca Trịnh Công Sơn, sự tuyệt vọng và mất mát không chỉ nằm trong sự chia lìa, ngăn cách hay bội phản, mà nằm ngay trong chính tình yêu, nằm trong bản chất của nó.

Sự thất bại trong tình yêu không phải tại Em (em bỏ đi, em chết, em phụ bạc, em vô tình...) mà trong nhiều trường hợp là tại Tôi. Nỗi bi đát không cùng của Cõi thế cũng xuất phát từ Tôi. Mà nói cho cùng cũng chẳng phải tại Tôi. Trong Trịnh Công Sơn, ta thấy cái chia lìa nằm ngay trong gặp gỡ, cái đớn đau nằm ngay trong hạnh phúc, cái khởi đầu nằm ngay trong cái cuối cùng. Nghĩa là nằm trong tính “nhị nguyên” của sự vật, của tương quan Tôi - Em - Cõi thế. Trong những tình khúc nổi tiếng nhất của anh, tính bi kịch đó khi tỏ khi mờ xuất hiện. Những hình ảnh như ngàn năm, ngàn năm ru em muộn phiền (Tuổi đá buồn) tình như núi rừng cúi đầu, tiếng buồn rơi đều (Tình xa), hay khái niệm đỉnh cao/vực sâu, (Tình nhớ) hay những đóa mong manh (Quỳnh hương) đưa ta vượt khỏi biên giới của thứ tình yêu thuần túy thông thường. Nó đẩy ta đến bến bờ của những suy gẫm nhân sinh, những khắc khoải nhân thế. Những bài tình ca và thân phận ca nghe ra đều là nhân sinh ca.


Em:


Cái Em xuất hiện khá nhiều trong ca từ, có lẽ tương đương, hoặc không thua mấy cái Tôi, của Sơn. Em dường như không có nhân dáng cụ thể gì đặc biệt. Qua một vài ca khúc, thì Em có vẻ gầy (vai em gầy guộc nhỏ, trên vai gầy), bàn tay Em thì có năm ngón (đương nhiên), xanh xao (bàn tay xanh xao đón ưu phiền) và ngón tay Em cũng gầy (ngón tay em gầy nên mãi...) và cánh tay thì dài (dài tay em mấy...), tóc Em cũng dài (tóc em trôi dài trôi mãi...), đôi mắt thì hay buồn (nắng có buồn bằng đôi mắt em). Em có thể cũng đẹp (mi cong cỏ mượt...tay xanh ngà ngọc). Tóm lại, Em nhỏ nhoi, mỏng mảnh, có vẻ tiểu thư. Thực ra, Em chỉ là một hình ảnh, và trong rất nhiều trường hợp, chỉ là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn vay mượn để nói lên cảm thức của anh về Cõi thế và làm nổi bật cái Tôi.

Trước hết, Em là người mà “một ngày tình cờ biết em, là ngày lạ lùng nhất trần gian”. Em là “hoa lá giữa thiên nhiên hiền hòa”. Em là người mà Tôi muốn “yêu em thật thà”. Tôi “xin năm ngón tay em thiên thần” và “Ru em ngồi yên nhé” để Tôi “tìm cuộc tình cho”. Chính vì thế mà “Tôi đã yêu em bao ngày nắng bao ngày mưa”. Nhưng bất hạnh thay, trong tình yêu “đã có nghìn trùng trên môi người tình, đã dấu nụ tàn bên trong nụ hồng, có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn”. Vì sao? Vì Em là người luôn luôn xa cách:

- Em đi biền biệt muôn trùng quá

- Em đi bỏ lại dặm trường

Em lúc nào cũng vội vàng:

Em đi qua chốn này ối a sao em đành vội

Em chỉ là chiếc bóng chập chờn, thấp thoáng, mong manh:

Một lần thấy bóng em qua nơi này một lần với bóng tôi

Một ngày đã có em xa nơi này một ngày với vắng tôi

Em gây ra nỗi nhớ:

- Từng nỗi nhớ, trùng trùng nỗi nhớ

- Mong em qua bao nhiêu chiều, vòng tay đã xanh xao nhiều .

Em làm cho cuộc tình bay đi, tan vỡ:

- Rồi tình cũng xa khơi, phiến sầu là tháng ngày

- Cuối đời còn gì nữa đâu, đã tàn mộng mị khát khao

Đôi khi con tim hò hẹn ngậm ngùi vì một ngày mưa bắt đầu

Thế là:

Quanh em trăm năm khép lại có còn ai mang hoa tươi

về yêu dấu ngồi

Em đã vĩnh viễn ra đi, em:

Bỏ trăm năm sau ngàn năm trước - Bỏ mặc tôi là tôi là ai

...Bỏ xa xôi yêu và gần gũi - Bỏ mặc tôi buồn giữa cuộc vui

Vậy thì:

Em là ai ? em là ai? Tôi tìm hạt bụi bay trong cuộc đời

Có lúc, anh tự trả lời:

Em là tôi và tôi cũng là em


Tôi:


Tôi là gì? Tôi là ai? Đó là ám ảnh lớn nhất và sâu thẳm nhất của Trịnh Công Sơn. Hầu như suốt đời, anh chỉ loay hoay đi tìm bản lai diện mục của cái Tôi đơn giản mà huyền hoặc đó. Tôi của anh chẳng phải chỉ là cái chủ thể yêu đương, ngay cả trong những bản tình ca có vẻ “tình ca” nhất. Cái Tôi ở đây đa dạng. Tôi yêu - Tôi tra vấn - Tôi đợi - Tôi bâng khuâng - Tôi yên lặng - Tôi biến dịch - Tôi là Em - Tôi là Ta - Tôi siêu thoát - Tôi cô đơn - Tôi than thở - Tôi trẻ - Tôi già - Tôi suy tư - Tôi vô thường...

Cái Tôi đó rất lạ lùng: chưa vui đã thấy buồn, chưa gần đã thấy xa, chưa đi đã thấy về, chưa sống đã thấy chết, chưa yêu đã thấy mất. Tôi loanh quanh, thắc thỏm, nghi hoặc. Tôi nhạy cảm với mọi vật, mọi sự: một chút gió, một chút nắng, một chiếc lá rơi, một cái nhìn. Cái Tôi lo lắng chuyện “một ngày” (một sát na) cho đến chuyện “trăm năm”, “ngàn năm”. Cái Tôi đó còn có một sở thích khá lạ lùng: Ru. Ru tình, ru đời, ru Ta, ru người, ru thế giới và ru...Em. Cái Tôi than thở, la hét, kêu gào, hân hoan, xao xuyến. Lại có lúc cái Tôi im lặng, thu vào bên trong, biến mình nhỏ lại và tan giữa thinh không hoặc tan trong cội nguồn. Cái Tôi đó có lúc thật cuồng ngạo: Ta phải thấy mặt trời (ghê chưa!). Cũng có lúc chỉ biết van xin: Xin mặt trời ngủ yên! (tội chưa!)

Vậy thì, Tôi không chỉ là một cá thể, lại càng không phải chỉ là cái Tôi-suy-tư. Tôi rõ ràng là một thân phận, một số kiếp, một dấu hỏi bất tận, một tìm kiếm không nguôi. “Hình dạng” cái Tôi như thế nào? Trước hết đó là một “hạt bụi hóa kiếp thân tôi” để sau cùng “tôi về làm cát bụi”. Từ hạt bụi này đến hạt bụi kia, Tôi là thực thể “mỏi ngóng tin vui” trong một tình hình hết sức tạm bợ:

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời

Chỗ trọ, buồn thay, cũng là chốn lưu đày:

Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây

...Còn bao lâu tôi xa anh xa em xa tôi

Giữa chốn đó:

Tôi như là người lạc trong đô thị một hôm đi về biển khơi

Tôi như là người một hôm quay lại vì sao vẫn cứ lạc loài

Tôi sống giữa cuộc đời, giữa mọi người nhưng tuyệt đối cô đơn:

- Trời cao đất rộng một mình tôi đi, một mình tôi đi

Trời cao đất rộng, một mình tôi về, một mình tôi về, với tôi

- Không còn ai, không còn ai, ta trôi trong cuộc đời,

không chờ không chờ ai.

Chính từ cảm thức cô đơn ghê gớm đó mà Tôi khi thì “như chim xa lạ, đứng nhìn những ngày qua” khi thì “là chút vết mực nhòe”, khi thì “như đá nặng nề” và nhiều lúc “mơ hồ tưởng mình là cơn gió”. Bởi thế mà Tôi luôn luôn bất an:

Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ

Tôi nghĩ quanh đây hồ như

Những mong ước hoàn toàn vô vọng:

Tôi như mọi người mong ngày sẽ tới

Nhưng khi về lại thu mình góc tối

Trong tôi rụng đầy bao nhiêu nụ cười

Có nói được gì những tiếng bi ai

Để rồi:

Hôm nay thức dậy, không còn thấy mặt trời

...Hôm nay thức dậy

Tôi ngẩn ngơ tôi

Hôm nay thức dậy

Mê mỏi thân tôi

Tôi là một hiện hữu hoàn toàn bế tắc. Bởi thế mà “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt, trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt dọi xuống trăm năm..” Rốt cuộc, Tôi là một nghịch lý:

Còn hai con mắt khóc người một con

Còn hai con mắt một con khóc người

Con mắt còn lại nhìn một thành hai

Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ

Đấy! Lỗi tại cái Tôi mọi đàng. Em yêu thương cũng là từ Tôi. Mà Em thú dữ cũng là từ Tôi! Còn ai vào đó, hỡi ôi! Nhưng vĩnh viễn, Tôi vẫn là một dấu hỏi đầy nghiệt ngã:

Tôi là ai mà còn khi dấu lệ

Tôi là ai mà còn trần gian thế

Tôi là ai, là ai, là ai...mà yêu quá đời này.

Tôi là ai? Vâng, đó là một câu hỏi mà cho đến tận cuối đời, TCS vẫn không thể tìm ra giải đáp.


Cõi thế:


Cõi thế trong nhạc Trịnh Công Sơn được diễn tả ở nhiều cấp độ, nhiều hình tượng và nhiều ý niệm khác nhau.

Trước hết, đó là những vật và sự vật gần gũi liên hệ trong đời sống hàng ngày, từ “đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ” cho đến “biển nhớ tên em gọi về”; từ “nắng thủy tinh” cho đến “nắng khuya”; từ “mặt trời vẫn ngủ yên” cho đến “mưa dưới chân ngà” và “một loài hoa chợt tím”; từ con trăng là “tên lãng du” cho đến “mặt đất ưu tư bỗng nở nụ cười”; từ những đường phố “mệt nhoài”, “hắt hiu” cho đến đường phố “đầy tiếng chim”; từ Sài Gòn “mưa rồi chợt nắng” về Huế “đường phượng bay mù không lối vào” cho đến Hà Nội “xôn xao con đường, xôn xao lá”; từ “những hàng cây xanh đón em áo lộng” cho đến “những mặt đường nằm câm”; từ “ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì” cho đến “có nắng vàng nghèo trên lối đi xa”. Cái thế giới gần gũi ấy phần đông đều có dáng dấp phố như Bửu Ý nhận xét: “Hình ảnh phố phô mình phân rải trong ca khúc anh: phố xưa, phố hẹn, phố xôn xao, phố rộng, phố thênh thang, phố cao nguyên, phố nọ, phố xa lạ... Phố như là nơi triển lãm của sự sống, một đại hội đời, một nơi tập cư đủ mẫu người, một bãi thí nghiệm bao thế thái nhân tình làm thỏa lòng con người nào muốn sưu tập con người”(20)

Đó là một cõi thế cụ thể. Cõi thế của anh còn mở rộng ra trong không gian và thời gian, một cõi thế trừu tượng, siêu thực và rộng, dài đến vô cùng. Đó là cõi thế của “nhật nguyệt trên cao, ta ngồi dưới thấp”, của “một ngàn năm trước mây qua mây qua...một ngàn năm nữa mây qua mây qua”. Đó là cõi của “bốn mùa thay lá”, “rồi mùa xuân không về mùa thu cũng ra đi”, cõi của đêm ngày u tịch, của “trong xuân thì đã thấy bóng trăm năm”. Một cõi thế luôn luôn bất ổn, có đó mất đó “vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ”, của “ngày nào vừa đến đã xa muôn trùng”. Đó là cõi “trời cao đất rộng, một mình tôi đi...Đời từ vô tận một mình tôi về”. Đó cũng là cõi của “một người về đỉnh cao một người về vực sâu”, “con diều rơi cho vực thẳm buồn theo”. Đó là cõi của “đá lăn, vết lăn trầm”, của một vườn địa đàng mù tăm mất dấu, một “paradis perdu” “qua khoang trời vắng chân mây địa đàng” hay “đêm hồng địa đàng còn in dấu chân bước quen”, chỉ còn “bài ca dao trên cồn đá”...

Tóm lại, dưới con mắt Trịnh Công Sơn, cõi đời là “một cõi bao la ta về ngậm ngùi”, trong đó:

Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ

Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà

buồn bã hiu hắt:

Có những bạn bè xanh như người bệnh

Có tiếng cười và tiếng khóc mênh mông

...Có những mặt người giữa phố hoang mang

vô vọng:

Dưới ngọn đèn một bóng chim qua

Giữa đường đi một người đứng gọi

Có biết gì về ngày chưa tới

không còn đấng cứu chuộc:

Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người


*


Ba hình tượng Em, Tôi và Cõi thế trong ca từ Trịnh Công Sơn đều là hư huyễn vì bản chất của chúng là nghịch lý. Cái chất nghịch lý này được Trịnh Công Sơn diễn tả hầu như xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của anh. Cao Huy Thuần đã phân tích rất chi ly và đặc sắc tính cách này trong ca từ (mà ông gọi là nét nhạc):

“ Đối nghịch là nét nhạc riêng của Trịnh Công Sơn. Anh nói một điều rồi anh nói điều trái lại. Như nét hỏng nằm giữa toàn bích. Bài hát này của anh đối nghịch với bài hát kia, lời một đối nghịch với lời hai, câu sau nghịch với câu trước, thậm chí hai hình ảnh nghịch nhau trong cùng một câu, trong vòng đôi ba chữ”(21)

“Có một chút của cái này và một chút của cái kia. Có một chút của cái này trong một chút của cái kia. Có một chút xuôi trong ngược. Trăm năm trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ”... “Trong nhớ đã có quên, trong quên vẫn cứ nhớ, tưởng vơi mà đầy, trong con nước rút có hồng thủy dâng lên”(22)

Theo tôi, đó là nét nhất quán trong cái nhìn của Trịnh Công Sơn về cuộc tồn sinh. Chính bản thân anh đã diễn tả cái nhìn “nghịch lý” đó như sau:

“Tôi đã mỏi dần với lòng tin. Chỉ còn lại niềm tin sau cùng. Tin vào niềm tuyệt vọng...Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng”(23)

ở một bài khác, anh cho biết:

“Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru con của mẹ”(24)

Vậy thì đã rõ, Trịnh Công Sơn, trước sau vẫn là một người “duy lý”. Anh nói về tuyệt vọng, về hư vô, về sự cô đơn, về Em, về Tôi, về Cõi thế trong tâm thức một người tỉnh táo, chứ không phải trong tâm thức của một người điên mê tuyệt vọng như cô gái thời chiến tranh “tôi có người yêu chết trận ...hôm qua, chết thật tình cờ...”. Hơn thế nữa, đôi khi như một người ngoài cuộc, anh tỉnh táo ngắm nhìn và lý giải. ở điểm này, tôi (tác giả bài viết này, không phái cái Tôi của TCS) đồng ý với Võ Phiến khi ông cho rằng Trịnh Công Sơn mới lớn lên đã thốt lời siêu thoát như một đạo sĩ đầu râu tóc bạc chống gậy trúc dưới một chân núi nào. Một tác giả khác, Huỳnh Hữu Uỷ, nhận xét Trịnh Công Sơn đã từng “lý giải tài tình những u uất của kiếp người, nỗi hoang vu và mộng ảo nhân sinh trước thực tại mênh mông, cùng lúc đặt con người đối đầu cả trước vận mệnh lịch sử, anh cư ngụ trong cuộc đời không chỉ như một thi sĩ ca hát cái đẹp mà còn là một nhà hành giả sống cái ẩn dật bên trong”(25)

Vâng, nghệ thuật cũng là một cách lý giải đời sống. Thay vì dùng một chuỗi luận lý để tìm cách chứng minh, thuyết phục, ở đây, Trịnh Công Sơn dùng từ ngữ và hình ảnh, biểu tượng để ...hát. Anh lặp đi lặp lại mãi cùng một số ý. Một thứ triết học nhẹ nhàng như ca dao hay lời ru con, như anh phát biểu. Rõ ràng là tư tưởng Phật giáo và Lão giáo, cả dưới dạng bình dân lẫn bác học, có một dấu ấn sâu đậm và tự nhiên trong tâm thức anh. Đó là lẽ vô thường. Đó là vòng thời gian sinh tử. Đó là một cõi “sinh ký tử quy”, sống gửi thác về. Đó cũng là âm dương tương sinh tương khắc. Cũng như Kim Dung đã dùng võ học và các hình tượng nhân vật để “hiện thực hóa” các tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo trong các bộ truyện kiếm hiệp của ông, TCS khai thác tận cùng khả năng diễn đạt và gây ấn tượng vừa bình dân vừa bác học bằng cách xào nấu ngôn ngữ, ghép từ ghép ý, đôi khi dùng thủ pháp đảo lộn cấu trúc câu và chữ, làm cho các ý tưởng và triết lý đông phương mang những dáng vẻ mới. Mặt khác, cũng phải ghi nhận ảnh hưởng của những trào lưu triết học thời thượng khá phổ biến hồi đó ở miền Nam, đặc biệt là hiện sinh, lên ca từ của TCS. Các khái niệm về phi lý, hư vô, mỏi mệt...được anh đưa vào ca từ một cách thoải mái.

Ngoài ra, anh khai thác lối hợp âm hợp vận đa dạng cọng với âm thanh phổ thông phụ họa (nhạc gọn gàng, giai điệu đơn giản, trơn tru, phù hợp với đủ loại giọng) để đưa vào quần chúng. Anh sáng tạo nhiều ý tưởng và hình ảnh khá ngộ nghĩnh, đôi khi vô nghĩa, nhưng lại tiềm ẩn nhiều ý nghĩa: tôi thu bóng tối, tôi thu tôi nhỏ lại. Nhiều khi tôi có cảm giác như anh đùa cợt với chữ nghĩa, vì anh biết rõ bản chất giới hạn của chúng. Anh mặc tình thao túng, vọc giỡn. Khi thì anh khai thác những hình ảnh đầy chất thơ, khi thì rặt cả chữ nghĩa bề bộn, làm dáng (hư vô, ưu phiền...) khi thì nặng nề âm khí , khi thì nhẹ nhàng siêu thoát, khi thì tinh nghịch, thơ ngây, đôi khi có vẻ như anh muốn trêu chọc, đánh lừa cảm quan của chúng ta: “Đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt vọng...”. Cái gì vậy? Thực ra, anh muốn đẩy nỗi tuyệt vọng đến tận cùng của nó. “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, bài ca trông như rất lạc quan, nhưng để ý mà xem, chúng chỉ là một niềm vui “phải đạo”, vui cho có. Niềm vui làm sao mà ta có thể chọn mỗi ngày, y như ta chọn áo chọn quần được.


V. Thử đọc (và nghe) một vài bản nhạc ưa thích


Biết đâu nguồn cội (Nhịp 2/4, âm giai Đô trưởng, vừa, vui)


1. Em đi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằm ngủ - Con sông là quán trọ và trăng tên lãng du

Em đi qua chuyến đò ối a con trăng còn trẻ - Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già

2. Em đi qua chuyến đò ối a trăng nay đã già - Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra

Em đi qua chuyến đò, lắng nghe con sông nằm kể - Trăng ơi trăng rất tệ, mày đi nhớ chóng về

3. Em đi qua chuyến đò ối a vui như ngày hội - Tôi xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi

Em đi qua chốn này ối a sao em đành vội - Tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài

4. Tôi vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội - Cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng tối

Tôi vui chơi giữa đời ối a biết đầu nguồn cội - Tôi thu tôi bé lại, làm mưa tan giữa trời










Bản nhạc vui tươi nhí nhảnh nghe như một bản đồng dao. Hát tập thể, có thể vừa hát vừa vỗ tay. Bài ca có bốn phiên khúc, hai phiên khúc đầu đề cập đến Trăng và Sông. Hai phiên khúc sau đề cập đến Tôi và Em. Ba thực thể chính vẫn là Tôi - Em - Cõi thế. Bài hát nêu lên hình tượng đối nghịch giữa Tôi/Em, chủ thể/đối tượng, động/tĩnh, biến dịch/bất biến.


Nguyệt ca (nhịp 2/4, âm giai Mi trưởng, nhẹ nhàng, trữ tình)


1. Từ khi trăng là nguyệt đèn thắp sáng trong tôi - Từ khi trăng là nguyệt em mang tim bối rối

Từ khi trăng là nguyệt tôi như từng cánh diều vui - Từ khi em là nguyệt trong tôi có những mặt trời

Từ đêm khuya khi nắng sớm hay trong những cơn mưa , từ bao la em đã đến xua tan những nghi ngờ

Từ trăng xưa là nguyệt lòng tôi có đôi khi tựa bông hoa vừa mọc hân hoan giây xuống thế

Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời gõ nhịp ca - Từ khi em là nguyệt cho tôi bóng mát thật là.


2. Từ khi trăng là nguyệt, vườn xưa lá xanh tươi - Đàn chim non lần hạt cho câu kinh bước tới

Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời vỗ về tôi - Từ khi em là nguyệt câu kinh đã bước vào đời

Từ bao la em đã đến hay em sẽ ra đi vườn năm xưa còn tiếng nói tôi nghe những đêm về

Từ trăng thôi là nguyệt một hôm bỗng nghe ra buồn vui kia là một như quên trong nỗi nhớ

Từ trăng thôi là nguyệt tôi như giọt nắng ngoài kia - Từ em thôi là nguyệt coi như phút đó tình cờ.


3. Từ trăng thôi là nguyệt là trăng với bao la - Từ trăng kia vừa mọc trong tôi không trí nhớ

Từ trăng thôi là nguyệt hôm nao chợt có lời thưa - Rằng em thôi là nguyệt tôi như đứa bé dại khờ

Vườn năm xưa em đã đến nay trăng quá vô vi giọt sương khuya rụng xuống lá như chân ai lần về

Từ trăng thôi là nguyệt mỏi mê đá thôi lăn vườn năm xưa vừa mệt cây đam mê hết nhánh

Từ trăng thôi là nguyệt tôi như đường phố nhiều tên - Từ em thôi là nguyệt tôi xin đứng đó một mình.









Bản nhạc trữ tình, không nhí nhảnh như bản trên. Hát một mình. Vỗ tay theo không hay nhưng thích thì vỗ tay...cũng được. Bài ca có ba đoạn, chứa hai ý chính: Khi trăng là nguyệt (hay em là nguyệt), nghĩa là Em và Tôi gặp nhau, yêu nhau thì...thế và khi trăng không còn là nguyệt (hay em không còn là nguyệt), nghĩa là Em và Tôi xa nhau, thì ...thế. Bài ca nêu lên cái ý: cõi thế biến dịch theo tương quan giữa Em và Tôi và tâm thức vui buồn của Tôi. Từ Tôi mà ra Cõi thế. Tướng tự tâm sinh.

*


Ta để ý, trong một số bản nhạc, Trịnh Công Sơn hay đề cập đến trăng, đến mặt trời. Nhật-nguyệt được xem như biểu tượng của vũ trụ, cõi thế:

- Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt

- Nhật nguyệt trên cao ta ngồi dưới thấp

Đâu cũng là trăng. Nhưng trăng trong “Biết đâu nguồn cội” (BĐNC) có tính khách quan. Nó nằm ngoài Tôi. Nó chỉ là một “tên lãng du”. Nhưng trăng trong “Nguyệt ca” (NC) gắn liền với Tôi. Nó tạo thành Cõi thế của Tôi. Nó tạo thành Tôi. Trong BĐNC, trăng chỉ là một đối sánh với Em. Trong NC, trăng là nguyệt, là em, và qua đó, trăng dính liền với Tôi, là điều kiện tồn tại của hiện sinh Tôi, trở thành bản thân Tôi. Sự chuyển biến trăng - nguyệt - em thay đổi thân thế và cảm quan của Tôi. Bởi thế mà trong BĐNC, Tôi “rong chơi” giữa đời. Còn trong NC, từ chỗ “nghe đời vỗ về tôi” đến chỗ Tôi “không trí nhớ” để cuối cùng trở thành “đứa bé dại khờ”. Trong BĐNC, Tôi sẵn sàng “lăn theo gót hài” để rồi “làm mưa tan giữa trời”. Còn trong NC, Tôi lại bị phân thân trở thành “đường phố nhiều tên” để rốt cuộc “đứng đó một mình”.

Thú vị là ở chỗ, trong BĐNC, cái Tôi trông có vẻ siêu thoát, đầy cảm thức đạo sĩ, trong lúc ở NC, cái Tôi có vẻ phiền trược, dính líu, vướng víu với đời. NC là một thế giới đầy cảm tính, trong đó, Tôi và Em cọ xát nhau. Đó là thế giới của là và thôi là, hiện hữu và phi hiện hữu. Tôi khoái lối sử dụng chữ nghĩa ở đây: trăng - nguyệt - em. Một đánh tráo giữa danh và thực, giữa cái biểu tượng và cái cụ thể. Trăng là nguyệt hay trăng là em? Em là nguyệt hay em là trăng? Nguyệt là em hay nguyệt là trăng? Cái nào thiệt cái nào không thiệt? ...Thực ra thì, ta cảm ngay trăng - nguyệt - em tuy ba mà là một. Ngôn, mà phá ngôn. Lời, mà phá lời.

Cả hai bài tuy khác nhau, nhưng hát lên, ta cảm nhận ngay chất “thiền ca” trong khí hậu của bài hát. Nó nằm giữa những giòng chữ, ý nghĩa, hình ảnh và âm thanh. Và đồng thời, nó nằm ngay ngoài chúng. Nhiều ý và hình ảnh xuất hiện thật bất ngờ, bất ngờ đến nỗi, dù nghe đi nghe lại nhiều lần, chúng vẫn có vẻ như vừa mới bật ra đâu đây, chừng một “sát na” trước. Và điều lạ hơn nữa, nó có vẻ như “bật” từ trong ta mà ra, chứ không phải là từ Trịnh Công Sơn.


Và thêm một bài nữa


Định chấm dứt bài viết ở phần trên, nhưng chợt vừa nghe thêm một bản nhạc trong một cuốn băng do chính giọng Trịnh Công Sơn hát: bài “Ra đồng giữa ngọ”. Bài hát này cũng nhịp 2/4, giòng nhạc vui tươi, nhí nhảnh, âm giai Fa trưởng. Bài này cũng có tính cách đồng dao, đặc biệt không có Tôi mà cũng chẳng có Em. Chỉ có ba hình tượng: thằng bé, con diều giấy và yêu tinh.

Bài hát giản dị, lặp đi lặp lại một câu chuyện vui. Giữa trưa đứng bóng, một thằng nhỏ (là Tôi, là anh, là em, là con người) mang diều ra thả giữa đồng. Trong khi bay cao, con diều bỗng gặp một khuôn mặt yêu tinh. Thay vì tranh chấp đấu đá, chúng cùng bay lên bay cao giữa thinh không với nhau. Câu chuyện kết thúc đơn giản, rất đơn giản:

Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ

Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không.

...Tan trong cội nguồn.

Vâng, tan giữa hư không. Cả thằng bé. Cả con diều. Cả khuôn mặt yêu tinh. Cả Em. Cả Tôi. Cả Cõi thế. Tất nhiên, tất cả: tan trong cội nguồn.

Trần Hữu Thục

(7/6/2001 - 9/7/2001)


1. Văn Cao, Lời bạt, “Tuyển tập những bài ca không năm tháng”, tái bản

lần 4, Nhà xuất bản Âm Nhạc, Việt Nam 1998, tr. 278

2. Nguyễn Xuân Hoàng, “Sổ tay”, Văn (Cali) 53 &54, số đặc biệt về

Trịnh Công Sơn, tháng 5 & 6/2001, tr. 7

3. Vũ Thư Hiên, “Thương nhớ Trịnh Công Sơn”, Thế Kỷ 21 (Cali)

số 145, tháng 6/2001, tr. 62

4. Bùi Bảo Trúc, “Về Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 44

5. Phạm Duy, “Hồi ký Phạm Duy III”, dẫn theo Văn, sđd, tr. 35

6. Văn Cao, Tuyển tập... đã dẫn, tr. 278

7. Phạm Văn Tuấn, “Vĩnh biệt thi sĩ du ca Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 26

8. Trịnh Công Sơn, “Ca khúc mang đến sự cảm thông giữa mọi người”,

Văn, sđd, tr. 150

9. Tô Thùy Yên, “Mỗi ca khúc như một lời trăn trối”, Văn , sđd, tr. 37

10. Đặng Tiến, “TCS, đời và nhạc”, Văn, sđd, tr. 15

11. Bửu Ý, “Thay lời tựa”, Tuyển tập...đã dẫn, tr. 9

12. Trịnh Công Sơn, “Diễm của những ngày xưa”,Văn, sđd, tr. 140

13. Xem “Một bài thơ hay của TCS”, Hoàng Ngọc Hiến, dẫn theo

Tạp chí Thơ (Cali) số mùa Xuân 2001, tr. 19-21

14. Trịnh Cung, “Bi kịch Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 79

15. Tô Thuỳ Yên, “Mỗi ca khúc như một lời trăn trối”, Văn, sđd, tr. 38

16. Sương Biên Thùy, “Thảm kịch của một thiên tài”, bài gửi riêng,

chưa đăng báo

17. Nguyễn Duy, “Tôi thích làm vua” (1987), dẫn theo Hợp Lưu 59,

tháng 6 & 7/2001, tr. 63-64)

Để hiểu cái tinh thần “sống còn” này, xin trích một vài đoạn trong hai bài hát tiêu biểu thời kỳ này là “Huyền thoại mẹ” và “Em ở nông trường, em ra biên giới” (Cả hai bài đều không có mặt trong Tuyển tập ”Những bài ca không năm tháng”).

“Huyền thoại mẹ”: Mẹ lội qua con suối - Dưới mưa bom không ngại - Mẹ nhẹ nhàng đưa lối -Tiễn con qua núi đồi...Mẹ về đứng dưới mưa - Che từng căn hầm nhỏ - Xoá sạch vết con về - Mẹ ngồi với cơn mưa... “Huyền thoại mẹ” này thiếu hẳn cái tha thiết và cảm xúc chân thật của “Hát cho một người nằm xuống”: Vùng trời nào đó anh đã bay qua - Chỉ còn lại đây những sáng bao la - người tình rồi quên , bạn bè rồi xa - ôi tháng năm, những dấu chân là vết bụi mờ...

- “Em ở nông trường, em ra biên giới”: ...Xa nông trường ra biên giới, có đôi khi đi không trở lại - Nhưng trong lòng nghe tiếng nói, những gian nan sẽ đo lòng người - Từ biên giới xa, chốn em sương mù, rừng sâu tìm những lối mòn qua - Từng khi nắng mưa, lẫn đêm nằm nhớ màu đất trời quen quá chốn quê nhà - Khi qua rừng, khi qua suối, thấy vui theo bước chân đồng đội - Trong những ngày gian nguy ấy biết bao nhiêu những câu chuyện đời. Bài hát thuộc loại cổ động phong trào, đại loại như “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” hay “Bài ca năm tấn”

18. Trịnh Công Sơn, Lời mở, Tuyển tập...đã dẫn, tr. 4

19. Bùi Bảo Trúc, “Về Trịnh Công Sơn”, Văn, sđd, tr. 46

20. Bửu Ý, “Thay lời tựa”, Tuyển tập đd, tr. 6

21. Cao Huy Thuần, “Buồn bã với những môi hôn”, Thế Kỷ 21

số 146, tháng 6/2000, tr. 60

22. Cao Huy Thuần, bđd, tr. 61

23. Trịnh Công Sơn, “Nỗi lòng của tên tuyệt vọng”, Văn, sđd, tr. 137

24. Trịnh Công Sơn, “Để bắt đầu một hồi ức”, Văn, sđd, tr. 139

25. Huỳnh Hữu Ủy, trong Brochure triển lãm tranh Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Trịnh Công Sơn năm 1990 ở Sài Gòn, dẫn theo Hợp Lưu, sđd, tr. 71.


Nguồn: Dactrung
Girls Generation - Korean