Thứ Năm, 24 tháng 9, 2009

At Seventeen - by Janis Ian

Cách đây 2 ngày, trên đường tới sở làm, được nghe bài này, quá hay! Cảm giác hệt như lần đầu nghe "You're my everything" trên 20 năm trước. Chỉ khác lần này thưởng thức được cả nhạc lẫn lời, cùng tâm sự tác giả. Mời bạn cùng nghe:





I learned the truth at seventeen
That love was meant for beauty queens
And high school girls with clear skinned smiles
Who married young and then retired
The valentines I never knew
The Friday night charades of youth
Were spent on one more beautiful
At seventeen I learned the truth

/ C - / Dm - / G7 - / C - / :

And those of us with ravaged faces
Lacking in the social graces
Desperately remained at home
Inventing lovers on the phone
Who called to say, "come dance with me"
And murmur vague obscenities
It isn't all it seems at seventeen

/ Eb - / Dm7 G7 / Cm7 Fm7 / /
/ Ab G7 / Cm7 Fm7 / Dm7 - G7 - /

A brown eyed girl in hand-me-downs
Whose name I never could pronounce said
Pity, please, the ones who serve
They only get what they deserve
The rich-relationed home-town queen
Marries into what she needs
With a guarantee of company and haven for the elderly

Remember those who win the game
Lose the love they sought to gain
In debentures of quality
And dubious integrity
Their small town eyes will gape at you in
Dull surprise when payment due
Exceeds accounts received at seventeen

To those of us who knew the pain
Of valentines that never came
And those whose names were never called
When choosing sides for basketball
It was long ago and far away
The world was younger than today
And dreams were all they gave for free
To ugly duckling girls like me

We all play the game and when we dare
To cheat ourselves at solitaire
Inventing lovers on the phone
Repenting other lives unknown
That call and say, "come dance with me"
And murmur vague obscenities
At ugly girls like me, at seventeen

Tái Bút:

Không ngờ nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã dich lời Việt bài này, mời bạn cùng xem:

Tuổi Ðôi Mươi
At Seventeen


Nhạc Mỹ - Lời Việt : Phạm Duy

Tuổi mới đôi mươi, đã hiểu ngay ra :
Tình ái riêng cho ai là tiên nga.
Còn với sinh viên xinh đẹp thường thường
Thì sớm an thân mau vội tìm chồng !
Vì sớm hôn nhân nên thật ngây thơ
Buổi tối yên vui bên đàn con thơ
Chỉ biết trông nom thu dọn cửa nhà.
Tuổi mới đôi mươi đã hiểu ngay ra !
Còn như ai trong cảnh khó u sầu kia.
Lẻ loi trong đời sống, ôi nặng nề !
Trong cô đơn mơ mòng chi hơn ?
Tìm yêu nơi ai, ai gọi trong "phone"
Hẹn đến với nhau ngày vui cuối tuần
Gợi dăm ba câu, câu chuyện loăng quăng.
Ngày xưa ôi mộng mơ
Ðời ta nên thơ !

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2009

Nhạc sĩ Phạm Duy đã học cách sáng tác nhạc như thế nào?

Update 4/2010: Xem chính nhạc sĩ đã "học và hành" cách sáng tác nhạc ở đây:

http://www.phamduy2010.com/02sokhao/

Ngoài ra, các bạn cũng có thể tải về các e-books khác ở link sau:

http://www.phamduy2010.com/e-books/


****

Một câu hỏi được đặt ra – mà những ai là “fan” của nhạc sĩ chắc cũng đều muốn biết - nhạc sĩ đã học cách sáng tác nhạc như thế nào. Tìm hiểu kỹ lưỡng quyển “Phạm Duy –Hồi Ký Một” sẽ cho bạn một lời giải đáp rất thỏa đáng.
Năm 1942 chứng kiến sự ra đời tác phẩm đầu tay của nhạc sĩ là nhạc phẩm Cô Hái Mơ, phổ thành nhạc theo thơ Nguyễn Bính. Theo lời thuật của tác giả thì bản nhạc “giản dị là sự tùy hứng phổ nhạc những câu thơ mới” và “vì phải theo prosody của thơ nên tiết điệu cũng đơn sơ, dù đã có chia đoạn khác nhau trong cơ cấu.”


Điểm đáng kể trong bài nhạc đầu tay này, theo thiển ý, là nhạc sĩ đã “vô tình” sử dụng những thang âm ngũ cung khác nhau để sáng tác. Tuy “vô tình”, nhưng vì âm hưởng nhạc ngũ cung đã có dấu ân từ thủa ấu thời và tuổi bước vào đời, như tôi sẽ dẫn chứng một số chi tiết cũng trong bài viết này, mà rất tự nhiên nó là một phần chính xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ.

Hãy xem tác giả đánh giá tiếp bài nhạc đầu tay của mình vào năm 2009, gần 70 năm (!) sau khi nhạc phẩm chào đời:

“Tôi vô tình chọn một hệ thống âm giai ngũ cung để phổ nhạc, cho nên trong đoạn 1 của Cô Hái Mơ, motif là nét nhạc đi xuống fa mi re do, có repetition và imitation đi lên sol mi do fa... giai điệu nằm trong một hệ thống ngũ cung có nốt giáng :
Fa sol la do re mi (mib) hay Do re mi (mib) fa sol la




Về cấu phong, tiết tấu trong đoạn 1 phải là Lento : chầm chậm, kể lể, lãng mạn. Chú ý : chữ và -- trong câu khí trời trong sáng và êm ái -- được giảm xuống nửa cung, gây sự êm ái, mơ mộng.
Trong đoạn 2 này, giai điệu nằm trong ngũ cung do re fa sol la với 2 chuyển hệ fa sol lab do re mib (hai cung sau không dùng đến) và fa sol sib do re.

Tiết tấu phải có sự hoạt động (mouvemented), nhộn nhịp, đon đả... vì là cuộc tán tỉnh của Nguyễn Bính/Phạm Duy với cô sơn nữ...





Trong hai năm tiếp theo, 1943 và 1944, nhạc sĩ sáng tác ba nhạc phẩm khác là Gươm Tráng Sĩ, Phương Trời Xa, Con Ðường Vui (đồng soạn với Lê Vy) mà theo ông,


Qua tới những bài sau đó như Gươm Tráng Sĩ, Cây Đàn Bỏ Quên, giai điệu của tôi vẫn chưa phải là gamme phamduyrienne, tôi soạn theo gamme diatonique có chủ thể (tonal), với giọng re mineur (“ton” re thứ) mà ai cũng dùng, kể từ Lê Thương, Đặng Thế Phong, Văn Cao, Đỗ Nhuận v.v...

Nhạc sĩ học hỏi từ rất nhiều nguồn khác nhau. Những trích đoạn sau đây đều trích từ Hồi Ký Một.
Nguồn đầu tiên là từ một bà giáo dạy đàn tranh mà mẹ nhạc sĩ đã chu cấp việc ăn ở ngay trong nhà để dùng toàn thời gian dạy đàn cho hai bà chị.

Tuy vậy, trong cuộc sống gia đình, riêng tôi được nuôi dưỡng khá nhiều bằng âm nhạc. Mẹ tôi nuôi một bà đánh đàn tranh người Huế tên là bà Ấm Chung ở ngay trong nhà để dạy đàn cho hai chị tôi đánh những bài Nam Ai,Nam Bình, Lưu Thủy, Hành Vân... Tôi được làm quen ngay với nhạc dân tộc từ khi hãy còn măng sữa. Tôi còn có cảm tính quá nhạy bởi vì tôi khóc khi nghe một người hát rong đến trước cửa nhà, vừa hát vừa xin tiền với hát bài kể chuyện một hành khất mù bị đánh mất gậy. Cái vụ tôi cảm động đến khóc vì bài ca này là đề tài cho cả nhà tôi luôn luôn chọc quê tôi... (Chương 5)

Nguồn thứ hai là từ các “bài ta theo điệu Tây” rất thịnh hành trong thập niên 1930.

Một xu hướng đi tìm không khí mới cho âm nhạc Việt Nam đã thực sự ra đời khi nghệ sĩ Tư Chơi khẳng định đường lối soạn nhạc của ông. Ông soạn một số bài hát mà ông gọi đích danh là bài ta theo điệu Tây. Hoặc ông dùng nguyên vẹn những điệu Tây, chẳng hạn điệu Hoài Tình của ông, rất phổ biến trong giới Cải Lương, có thể khởi sự từ bài Tabou, bài này, theo tôi, cũng còn là bài đẻ ra nhiều bản đầu tay của một số mầm non nhạc sĩ vào hồi Tân Nhạc mới được thành lập.


Cùng một lúc với việc anh Tư Chơi tung ra trên sân khấu loại hát anh gọi là bài ta theo điệu Tây, thì trong giới yêu nhạc, với đa số là nam nữ trong tuổi thanh xuân, cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát Tây do các ca sĩ thời thượng như Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... hát vào đĩa hát 78 tours.


Các nghệ sĩ sân khấu Việt Nam trẻ, đẹp, hát hay như Ái Liên, Kim Thoa, lại được hãng BéKa, một chi nhánh của hãng Pathé bên Pháp mướn để thu thanh các bài ta theo điệu Tây vào dĩa hát. Suốt mấy năm liền, từ 1935 cho tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est À Capri, Tant Qu'il Y Aura Des Étoiles, Un Jour Loin De Toi, Celle Que J'aime Éperdument, Les Gars De La Marine, L'oncle De Pékin, Guitare D'amour, Créola, Signorina, Colombella... và của Mỹ như Good Bye Hawaii, South Of The Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm.


Trong mấy chục bài ta theo điệu Tây của hồi giữa thập niên 30, tôi chỉ còn nhớ lõm bõm vài bài, chẳng hạn bài hát theo điệu C'est À Capri :

C'est à Capri que je l'ai rencontrée
Je fus charmé encore plus que surpris.
De mille fleurs elle était entourée
Au milieu d'un jardin de Capri
Tout comme dans un poème
Me voyant elle me sourit
Je lui ai dit : je vous aime.
C'était au pays de Capri.
. . . . . . . . . . . . .
Ngày đua xe hoa năm đã qua bao tình sâu xa
Còn như in sâu trong trí tôi bao ngày vui qua.
Người mà tôi yêu, tôi đắm say, tôi hằng mơ
Đến với tôi, trong ngày vui, trong hội hoa.
Ngày nay anh tới đây, đợi chờ nắng
Mà sao em nỡ sao, em biệt bóng ?
Lòng anh ôi chứa chan mối tình ái
Lời thề nguyền non nước em đành sai...

Vào đầu thập niên 30, mỗi lần các gánh hát Cải Lương ở trong Nam ra Bắc trình diễn thì các minh tinh như các đào Năm Phỉ, Phùng Há, Kim Thoa các kép Năm Châu, Bẩy Nhiêu, Tư Chơi ngụ tại Hotel Đồng Lợi (?) ở đường Bờ Hồ, ngay gần nhà tôi. Tôi tò mò tới đứng ngoài cửa khách sạn, ngó qua cửa kính nhòm vào phòng ăn, thấy sao họ có thể đẹp đẽ sang trọng như người ngoại quốc thế kia ? Tôi không thể ngờ rằng có ngày tôi đứng chung trên một sân khấu với Tư Chơi hay Năm Châu tại Saigon trong thời gian trước và sau cuộc Cách Mạng-Kháng Chiến.

Làm sao mà chúng tôi không thích những bài ta theo điệu Tây cho được ? Trước hết, những bài mà tôi vừa dẫn kể ở trên, không những rất hay về ý nghĩa (lúc đó chúng tôi cũng đã giỏi tiếng Pháp lắm rồi) lại còn được những giọng hát ngọt lịm của Tino Rossi, lanh lảnh của Rina Ketty, hài hước của Georges Milton hay bình dị của Albert Préjean... làm tăng giá trị. Rồi bây giờ lại còn được Mai Lâm soạn những lời ca rất phù hợp với tuổi mơ mộng của chúng tôi. Đã có những hội ''Ái Tino'' được thành lập. Một thanh niên có giọng hát tốt, sau này là một nhạc sĩ được nhiều người biết tới, nhạc sĩ Canh Thân, bắt đầu cuộc đời ca hát của anh bằng cái tên Tino Thân. (Chương 8)


Nguồn thứ ba là từ các đĩa hát từ người anh Phạm Duy Khiêm:

Đây là lúc tôi đã mê hát và thích nghe nhạc lắm rồi ! Anh Khiêm đem ở Tây về rất nhiều đĩa hát và tôi thường lấy trộm để nghe.Tôi đã thuộc lòng những bản nhạc cổ điển như Sérénade của Schubert, Élégie của Massenet và những aria trong các opéra như Le Barbier De Séville của Mozart hay La Norma của Bellini. Tôi cũng hay nghịch ngợm với các điệu hát cổ điển này bằng cách thay đổi âm thể (mode) của bài hát. Ví dụ bài Sérénade của Schubert là trong âm thể ''minơ'', tôi thử hát với âm thể ''majơ'' để thấy sự khác biệt của tình cảm khi bị chuyển thể. (Chương 12)

Nguồn tài liệu thứ tư là ở cuốn sách Lavignac:

Sự học hỏi của tôi về nhạc thuật theo đường lối Âu Tây chỉ mới đóng khung trong sự nghe đĩa nhạc cổ điển của anh Khiêm mang từ Pháp về, trong sự đọc ngấu nghiến những bài học nằm trong cuốn sách dạy nhạc của LAVIGNAC tôi mua được ở Hà Nội từ lâu, nay là sách gối đầu ghế bố. Trong sự mò mẫm tự học đánh guitare và sự hoà đàn hằng đêm với ban nhạc Tây ở trong gánh hát. Tôi đã thuộc lòng nhiều bản nhạc hoà tấu là những bản nhạc bán cổ điển hay nhạc khiêu vũ rất nổi danh. Về nhạc cổ truyền, ngoài việc được nuôi dưỡng bởi những đám hát xẩm ở phố Bờ Hồ, bởi nhạc đàn tranh của bà Ấm Chung ở phố Hàng Dầu trong những năm còn bé, như hát quan họ ở Nhã Nam khi tôi là một anh nông dân đa tình... (Chương 20)


Cũng chính là quyển sách này mà nhạc sĩ đã không ngần ngại tặng lại cho người bạn mới quen là Trần Văn Khê khi hai người mới quen nhau ở Vĩnh Long.

… Bạn cùng nghề và sẽ dính líu với mình suốt đời là Lê Thương, đang ở Bến Tre, hớt hơ hớt hải từ một đồn điền nào đó ra nghe tôi hát. Là Trần Văn Khê ở Vĩnh Long, hãy còn là thư sinh nhưng không mình hạc vóc mai mà to béo như ông Hộ Pháp, tới nghe hát rồi chúng tôi kéo nhau ra một nhà thủy tạ ở bờ sông gọi là Cầu Lộ, ngồi nói chuyện huyên thuyên tới 3 giờ sáng vẫn chưa hết chuyện. Tại Vĩnh Long, tôi cho Trần Văn Khê mượn cuốn sách dạy nhạc của Lavignac mà tôi coi như một bảo vật. Yêu bạn nên sẵn sàng trao bảo vật. Trải qua một cuộc chiến dài dòng và khốc liệt, sau hơn 30 năm, khi tôi qua Florida, Hoa Kỳ vào năm 1975, từ Paris Trần Văn Khê gửi trả lại tôi cuốn sách đó, sách vẫn còn y nguyên, không mất một trang nào, không mất một dòng chữ nào của tôi ghi chú trên những trang sách đó. (Chương 27)

Với tính tò mò cố hữu, tôi thử truy tìm dấu vết của quyển sách “Lavignac” này. Thời đại “Google Search” quả thật tuyệt diệu, tôi không những tìm ra tên quyển sách, mà còn được xem nội dung của nó nữa. Quyển sách đã quá thời hạn 100 năm bản quyền nên được tự do scan và lưu hành trên liên mạng. Tôi cũng đã điện thư hỏi thăm nhạc sĩ và gửi ông quyển e-book này. Ông xác nhận đấy chính là quyển sách “gối đầu ghế bố” của ông.



Tuy vốn tiếng Pháp của tôi rất giới hạn, nhìn vào nội dung quyển sách tôi cũng thấy lý thuyết nhạc được mô tả rất cặn kẽ. Chẳng hạn, tôi có kể với bạn đọc (trong bài viết phân tích nhạc phẩm “Hoa Rụng Ven Sông”) là tôi học được về dãy hòa điệu (harmonic series) trong quyển “Melody in Songwriting”, thì trong quyển Lavignac, tác giả đã mô tả hiện tượng này từ khuya rồi!




Ngoài việc trình bày rốt ráo sự hình thành của dãy hòa điệu, tác giả cũng mô tả cặn kẽ các loại nhạc cụ như đàn dây, sáo, bộ gõ, rồi đến nhạc ngữ (grammaire de la musique) bao gồm hòa âm, đối điểm. Sau cùng, Lavignac dành một chương dài điểm danh các danh nhân âm nhạc tây phương qua các thời kỳ.

Sau cùng, nguồn tài liệu mà ông học hỏi từ lúc ấu thơ tới lúc trọng tuổi, không gì khác hơn là trường đời, mà ông gọi với danh xưng viết hoa là ĐẠI HỌC NHÂN DÂN. Từ những chuyến đi xa về làng quê:

Học về đồng ruộng nhiều hơn là học về vỉa hè, tôi lại có may mắn được về sống với vú tôi tại Trạm Trôi vào lúc tâm hồn tôi còn trong trắng, tôi biết được cái khổ hay cái sướng của một em bé quê ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ... để mấy chục năm sau có bài dân ca mới :

Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao... (Chương 4)


Hay học được lối hát quan họ từ anh nông dân tên Xuân:

Ngày ở Ấp Lan Giới, tôi được anh nông dân tên là Xuân dạy tôi hát quan họ. Nhưng dưới thời Pháp thuộc và vào năm 1943 này, tục lệ đáng yêu là sự tỏ tình qua tiếng hát trong lúc đang làm việc đồng áng đã không còn nữa. Làm gì có chuyện đi trên bờ đê sông đào, được dừng chân nghe tiếng hát lanh lảnh của cô cắt cỏ : Ai đi đường đó, hỡi ai, hay là trúc đã nhớ mai đi tìm ? Để có thể hát câu trả lời rất hợp tình, hợp cảnh : Hỡi cô đang cắt cỏ xanh, có về Lan Giới với anh thì về... Ngay cả cuộc thi hát trong những ngày hội làng cũng ít khi được tổ chức. Nói chung, nhạc cổ truyền từ dân ca, hát hội cho tới nhạc trên sân khấu Tuồng, Chèo đã tàn lụi. Chỉ có Hát Cải Lương -- nhất là Hát Vọng Cổ -- là khởi sắc.

Anh trai làng dáng người thấp bé và có đôi môi đỏ như môi con gái đã dạy tôi hát quan họ và làm cho thú vị vô cùng. Tôi thấy được tất cả sự lạc quan, tính trữ tình của người nông dân Việt Nam trong quá khứ qua những làn điệu vô cùng phong phú. Tại Nhã Nam vào năm 1943 này, không được hát tỏ tình thực sự với một cô thôn nữ nào hay đi dự thi hát ở một hội làng như hội Lim chẳng hạn... thì tôi đành hát chơi trong Ấp Bình Chương vậy.


Sau này chính tôi là người đầu tiên hát bài quan họ sau đây ở Hà Nội vào những năm 45, 46 và trên các Đài Phát Thanh ở Saigon vào những năm 52, 53 :

Gió rằng gió lạnh chứ gió lạnh cái đêm đông trường

Nửa chăn là chăn nửa chiếu ý a
Chứ mấy có nửa giường nửa giường để đó chờ ai ?


Tất cả những bài dân ca hay trường ca tôi soạn ra sau này đều đã được khởi sự nuôi dưỡng từ những ngày tôi sống tại Ấp Bình Chương thuộc Nhã Nam, Yên Thế, Bắc Giang. (Chương 16)


Chuyến du hành Bắc Nam với gánh hát Đức Huy – Charlot Miều (từ mùa Thu 1943 đến tháng 3 năm 1945) có lẽ mang lại nhiều chất liệu sáng tác nhất qua việc thâu thập các loại dân ca của từng vùng, việc tai nghe mắt thấy sinh hoạt dân gian, việc kết bạn với các nhạc sĩ của thời kỳ phôi thai của Tân Nhạc.

Tuy là một trong những người đầu tiên đưa ra chủ trương là phải tạo nên một dòng nhạc mới để thay thế cho dòng nhạc cổ nhưng tôi vẫn luôn luôn để tâm nghiên cứu kỹ càng những làn điệu của dòng nhạc bình dân ở từng địa phương để từ đó phát triển lên dòng nhạc cải cách. Sau khi đã nắm được nội dung và hình thức của hầu hết các loại dân nhạc ở miền Bắc như Hát Cò Lả, Hát Quan Họ, Hát Chèo, Hát Ả Đào v.v... vào đầu năm 1944 này, tôi bắt gặp một hệ thống ca nhạc hoàn toàn khác với hệ thống dân nhạc miền Bắc. Lúc còn bé, nghe ca Huế, tôi chưa nhận ra sự khác biệt của hai hệ thống âm giai mà nhà nghề gọi là hơi Nam, hơi Bắc. Bây giờ thì tôi nhận ra sự lơ lớ của cung bực trong những điệu hát mà người ca kỹ đang rót vào tai tôi trong khoang thuyền ấm cúng của con đò cắm sào bên bờ sông Hương.


Khám phá ra tính chất lơ lớ của giai điệu hò huế rồi, tôi sẽ là người đầu tiên ghi âm những bài ca Huế một cách khoa học hơn các bực tiền bối như Hoàng Yến trong loạt bài đăng trong tập san Bulletin Des Amis Du Vieux Huế hay như danh cầm Trần Quang Tồn trong một cuốn sách dạy đánh đàn tỳ bà vào hồi đầu thế kỷ thứ 20.

Ghi âm điệu hò Huế bằng ký âm pháp solfège vào năm 1944 nhưng chưa có cơ hội in ra. Phải tới khi tôi đi kháng chiến tại Thanh Hoá vào năm 1948, gặp Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản MINH ĐỨC thì điệu hò Huế đó mới được in ra trong một nhạc tập nhan đề Những Điệu Hát Bình Dân Việt Nam. Rồi khi tôi di cư vào Saigon, trong năm 1953, tôi lại có thêm một cơ hội nữa để cho ấn hành một bản nhạc rời về điệu hò đặc biệt miền Trung. Trong cả hai ấn phẩm được in ra ở Thanh Hoá và Saigon này, tôi nêu lên một lý thuyết : Âm giai ngũ cung lơ lớ của hò mái nhì khác hẳn với âm giai điều hoà (gamme tempérée) của Âu Tây và âm giai ngũ cung đúng của dân nhạc miền Bắc. Các cung bực của hò huế có những cao độ (intervalles) non hơn hay già hơn các cung bực trong âm giai Âu Tây hay âm giai miền Bắc. Tôi còn vẽ ra một sơ đồ so sánh sự khác nhau của những hệ thống âm thanh đó nữa. Chính vì đặc điểm âm giai lơ lớ này mà các điệu hát miền Trung, đặc biệt là điệu hò Huế, với những nét nhạc mơ hồ như nét nhạc Chàm hay nét nhạc Ấn Độ, đã hấp dẫn người nghe hơn là những điệu ca bình dị của miền Bắc. Trong phần tiểu dẫn in trong ấn phẩm của bài hò mái nhì hay hò mái đẩy, cách đây nửa thế kỷ, tôi đã nói tới sự thần bí của âm giai lơ lớ như sau:

Hò mái nhì hay hò mái đẩy là tiếng nói điển hình của người dân tại một miền nên thơ nhất của nước Việt. Tiếng hát xây dựng trên một hệ thống âm giai lơ lớ đã thể hiện được sự thầm bí của cõi lòng, vì vậy nên dễ dàng đi sâu vào tâm hồn người nghe hơn là nhạc ngũ cung đúng của miền Bắc. Sự thành tựu của nhịp điệu cũng rất là tế nhị :

Trước Bến à ơ
Văn Lâu ơ
Chiều chiều...
. . . . . . . . . .
Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu Ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm
Ai nhớ ai trông...


Tiếp theo là những câu thủ thỉ cốt nâng niu ý chính của toàn bài để rồi sẽ kết thúc bằng tiếng nức nở, có nhiều dấu chấm than ( ! ) và dấu chấm hỏi ( ? ):


Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy a rồi
A ơ á ơ
Mái đẩy động tấm ơ ơ lòng
Hơ... ơ à... à ơ
A non nước lơ non à ờ
A a ơi hự...


Lời ca của bài hò Huế trên đây là của một văn gia thuộc lớp người quyền quý ở Huế, Thúc Giạ Thị Ưng Bình. Nội dung có vẻ kích thích lòng yêu nước của người nghe.




Những ngày ở Huế, học hỏi về nhạc cổ truyền, tôi có may mắn được gặp các nhạc sĩ Vĩnh Phan, Bửu Lộc... Trong nhóm này còn có cụ Vĩnh Trân tức Ngũ Đại là anh của vua Duy Tân, đánh đàn tỳ bà rất hay. Những người trong hoàng phái này yêu âm nhạc với tâm hồn phóng khoáng, không như một nhạc công gốc Quảng Trị, người mà tôi nghĩ rằng chỉ nên kéo đàn nhị cho hay chứ không nên lập luận về âm nhạc bằng nửa con mắt và những rất ý nghĩ rất hẹp hòi và nông cạn.


Không một nền nhạc cổ truyền nào có thể tồn tại nếu không có sự cải cách liên tục. Chỉ người ngu dốt mới thần thánh hoá cái cổ rồi cho rằng mọi sự cải cách là bội phản (sic). Ngay lúc đó, tôi đã khám phá ra sự liên tục phát triển của những bài ca Huế. Một số những bài thuộc loại hát lý đã do các nhà giáo vừa mới phóng tác và cho in ra để dạy học trò, ví dụ bài Lý Hoài Xuân. Nghe một bài ca Huế là Tứ Đại Cảnh tôi nhận ra đó là nhạc điệu của bài Khi Tương Phùng trong loại hát quan họ của miền Bắc Ninh. Trong khi nhạc cổ truyền luôn luôn chuyển động thì anh nhạc công mà tôi không yêu đó lúc nào cũng mị dân bằng sự cổ hủ của mình.


Về phần Tân Nhạc, có các nhạc sĩ như Ngô Ganh, Văn Giảng... kéo nhau tới nghe tôi hát Buồn Tàn Thu ở rạp TÂN TÂN rồi sau đó chúng tôi kết thân với nhau. Đã có sự trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tài liệu giữa anh ca sĩ chuyên nghiệp và các nhạc sĩ tài tử ở miền sông Hương, núi Ngự.
Tôi đã biết thêm những bài hát mới, chẳng hạn bài Hương Giang Dạ Khúc của Lưu Hữu Phước mà tôi vội vàng hát ngay trên sân khấu gánh ĐỨC HUY.


Lại có thêm Nguyễn Văn Thương tặng cho những bài Trên Sông Hương, Bướm Hoa, Đêm Đông để đánh đàn với ban nhạc Tây trong gánh hát. (Chương 21)


Sau đây là một thí dụ khác về việc nhạc sĩ tìm hiểu về âm giai nhạc Chàm ra sao.

... Giã từ Quảng Ngãi, như một gánh hát quê đói khách nên không bỏ sót một điạ điểm nào, ĐỨC HUY-CHARLOT MIỀU ghé lại những thị trấn nhỏ như Tam Kỳ, Tam Quan trước khi tiến vào tỉnh lỵ Qui Nhơn. Tại Qui Nhơn, tôi được biết thêm một bãi bể nữa. Bãi bể này sạch sẽ, gọn gàng hơn tất cả các bãi bể khác vì nằm ngay trong thành phố. Tại đây, tôi còn được biết thêm một loại hát nữa là hát bài chòi của đám hát rong ngoài chợ, chuyên kể những truyện thơ bình dân như truyện KIỀU hay truyện NHỊ ĐỘ MAI qua lời ca tiếng hát. Lại khám phá thêm một âm giai khác với ngũ cung miền Bắc và ngũ cung Huế. Trong hát bài chòi có một bán-âm mà trong các âm giai ở miền ngoài không có. Âm giai DO MI FA SOL LA này cũng là âm giai nhạc Chàm và âm giai Vọng Cổ miền Nam. Thì ra nhạc Chàm gần gũi với nhạc Vọng Cổ hơn là với nhạc Huế.
(Chương 23)


Những thí dụ như trên để minh họa cho việc nhạc sĩ đã liên tục được tiếp cận, dù vô tình hay hữu ý, có thể thấy liên tục không những trong Hồi Ký Một, mà cả những Hồi Ký Hai, Ba và Bốn nữa. Tôi nghĩ đây là một cái “duyên” ngầm của cả bộ Hồi Ký. Tuy nói những chuyện xa xôi hằng nửa thế kỷ trước với lũ hậu sinh như tôi, nhưng vì khéo léo lồng vào những chi tiết trình bày cội nguồn của những nhạc phẩm Phạm Duy cùng lể lồi và hoàn cảnh sáng tác, hầu như đọc xong chương nào cũng đều có cái “ah ha!” và suy diễn đến cội nguồn của một nhạc phẩm nào đó.

Tôi lấy một thí dụ mà tôi cảm nhận được. Tôi vốn từ lâu rất hâm mộ nhạc phẩm Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu, phổ từ thơ Phạm Thiên Thư và sáng tác vào năm 1972, trong đó câu đầu tiên:


mà nhà thơ Nguyên Sa đã mô tả:

Phạm Duy mang lại cho ngôi chùa nhỏ dưới chân núi kiến trúc của một lâu đài, rồi anh không ngần ngại mang cả toà lâu đài đó lên đỉnh của ngọn núi cao nhất. Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn ngôi chùa ở chân núi của thơ được nhạc sĩ cho láy nguyên vẹn và đưa lên một cung bực cao hơn để thành một ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn... được lập lại lần ba trên một cung bực chót vót, toà lâu đài đã được đưa lên kỳ diệu tuốt trên đỉnh chót vót của ngọn núi.

Sau khi đọc Chương 4 – thuật chuyện lúc nhạc sĩ khoảng 5,6 tuổi (!) - tôi hiểu thêm nhạc sĩ đã lấy chất liệu từ đâu, và tại sao bài nhạc phải được hát với phong cách “Đầm Ấm”:


Không giầu để có thể luôn luôn mua đồ chơi hay may quần áo mới cho anh em tôi, mẹ tôi chỉ có thể biểu lộ tình thương yêu đối với đứa con út bằng cách cho tôi theo mẹ trong bất cứ một cuộc đi lễ xa gần nào. Tôi được đi lễ ở nhiều đền chùa nổi danh miền Bắc như Chùa Hương, Chùa Trầm, Đền Sòng Phố Cát... Cảnh đẹp của những ngôi chùa cổ làm tôi muốn trở thành một con người hiếu đạo. Thật thế, chùa chiền rất cần khung cảnh chung quanh để tạo cho ta sự thoát tục sau khi phải sống cuộc đời đầy bụi bậm. Tiếc rằng sau này tôi không tìm lại được sự rung cảm kỳ diệu đó ở những đền chùa quá ư ''văn minh'' tại miền Nam.


Từ lúc còn rất bé, không những được đi lễ với mẹ luôn luôn, tôi còn được mẹ tôi dạy tụng những câu kinh Phật :''... Lư hương xạ nhiệt pháp giới mông vân chư phật hải hội... '' Tôi lại là thằng bé không thích ăn thịt hay chấm nước mắm, nhiều khi chỉ ăn cơm với oản, với chuối cho nên ngoài cái tên thằng tôm, tôi còn có thêm cái tên là chú tiểu. Bây giờ về già nếu cần phải nhớ tới một trong những mối sầu lâng lâng đầu tiên của đời mình thì tôi phải nói tới buổi trưa hè trên một nẻo đường cái quan...


... Sau khi đi lễ ở một ngôi chùa nào đó, hai mẹ con tôi ngồi ôm nhau trên chiếc xe kéo bánh gỗ đưa chúng tôi về Hà Nội, anh phu xe nhễ nhại mồ hôi, con đường vắng tanh vắng ngắt, hai bên đồng lúa im phăng phắc, thời gian như ngừng trôi... Hình ảnh êm đềm và bâng khuâng này giống như một âm bản tuyệt vời của tuổi thơ đặt vào trong một cái máy thu hình là trí nhớ của tôi để mỗi khi muốn nhớ tới mẹ là tôi đem rửa ra thành một tấm dương bản.


Lại cũng còn có thêm một âm bản khác, dữ dội hơn, với hình ảnh hai mẹ con đi lễ trong khi trời đang giông bão, có cột đèn đổ, có cây gẫy cành chắn ngang đường đi... Người ta thường nhớ tới cha mẹ trong cảnh gia đình đầm ấm -- tôi cũng đã từng nói tới -- với hình ảnh cha ngồi xem báo, mẹ ngồi khâu áo, xa xa có tiếng còi tầu v.v... Tôi thường chỉ nhớ mẹ tôi trong kỷ niệm của những cuộc đi lễ xa xưa như vậy.


Tất cả các bà mẹ trên thế gian đều là mẹ hiền cả, nhưng mẹ tôi, Nguyễn Thị Hoà, là người mẹ hiền hoà nhất. Không bao giờ đánh mắng tôi cả. Mỗi khi tôi làm điều trái thì mẹ kể cho nghe một câu truyện cổ răn đời. Truyện Thằng Cuội hay truyện Lục Súc Tranh Công. Hoặc dạy tôi bằng những câu châm ngôn, ca dao, tục ngữ : Trông người phải gẫm đến ta thử sờ lên gáy xem xa hay gần...

Như bạn vừa thấy, những kỷ niệm “đi lễ xa xưa” kể trên mang dấu ấn đậm đà không chỉ ở Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu, ở Kỷ Niệm mà còn trong Trường Ca Con Đường Cái Quan và nhất là Trường Ca Mẹ Việt Nam. Có quá nhiều kỷ niệm đẹp với người mẹ yêu dấu, nhạc sĩ đã cho ta những câu nhạc hết sức dịu dàng, thiết tha.


Vừa rồi là một vài tìm hiểu ngắn những ảnh hưởng trong nhạc Phạm Duy. Tôi rất, rất may mắn gần đây (9/2009) được nhạc sĩ tặng một bản thảo sách nói về sự Học và Hành trong nhạc của ông dày 250 trang, hy vọng sẽ có dịp chia xẻ cảm nghĩ sau khi đọc cuốn sách trên với các bạn.
Hoctro (9/2009)

*** Update:

Mời bạn xem một quyển ebook của tôi, gồm các bài tiểu luận tìm hiểu dòng nhạc tình Phạm Duy ở link sau:

http://sites.google.com/site/phamduyproject/PhanTichNhacPhamDuy-byHoctro-V2.pdf

Ngoài ra, các bạn cũng có thể tải về các e-books khác ở link sau: http://www.phamduy2010.com/e-books/

Một trang do tôi cắt từng bài nhạc dịch sang lời Việt: http://loivietphamduy.blogspot.com/

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2009

Nước Mắt Mùa Thu



Hôm nay tinh cờ ghé sang dt thấy bà con bàn luận một chữ cũng khá hay "Hàng cây trút lá" hay là "Bằng cây trút lá"? Theo cách tôi nghĩ, qua quan sát cách đặt chữ của ns Phạm Duy cũng thâm niên, thì "Hàng cây trút lá" là đúng. Đem bộ sưu tập ra so sánh thì quả thật như vậy.

Trong cách đặt lời, thường thì có sự cân xứng, động từ đầu câu, thì câu kế cũng phải là động từ. "nước mắt" là danh từ, thì "hàng cây" danh từ mới là đúng, và có sự cân phương, logic của bài nhạc.

Chẳng cần phải verify lại với Bác PD làm gì, rõ như ban ngày.

Hoctro

Tái bút: xem lại image gốc do anh TC post thì quả là ns viết "Bằng", tuy nhiên bản ở hải ngoại - với chỉnh sửa - chắc là đúng hơn. Tôi thấy "hàng cây" hay hơn rất nhiều, vì là một từ rất gợi hình, làm cho chữ "trút lá" có "nhiều" lá trút hơn, còn "bằng cây" thì không rõ là bao nhiêu lá sẽ bị trút?

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

Mai Thảo

NGUYỄN ÐÌNH TOÀN

Không biết Mai Thảo bắt đầu viết văn từ bao giờ. Nhưng ông chỉ thực sự nổi tiếng tại miền Nam, sau hiệp định Genève, 1954.

Ðóng góp của ông vào văn học Việt Nam được coi là rất quan trọng, và ngay từ tác phẩm đầu tay: Ðêm Giã Từ Hà Nội.



Hà Nội 1954 đối với những người rời xa Hà Nội vào Nam là một Hà Nội bỏ lại.

Chia tay với Hà Nội, cùng một lúc người ta cũng chia tay với một quá khứ.

Một số văn nghệ sĩ đã nổi danh từ trước khi rời Hà Nội, một số khởi nghiệp vào đúng cái thời điểm đau thương đó, một số khác vừa lớn lên, bắt đầu công việc sáng tác, đã cùng với các văn nghệ sĩ miền Nam, tất cả, hợp sức tạo nên nền văn học nghệt thuật mới tại miền Nam.

Mai Thảo đã đứng ra chủ trương tạp chí Sáng Tạo, theo nhận định của Võ Phiến “Trong Tổng Quan Văn Học Miền Nam” thì, “tuy chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn 31 tháng, nó đã phát huy được một số văn tài đông đảo”.

Sau Sáng Tạo, Mai Thảo còn có lúc làm chủ biên cho các tạp chí Văn và tuần báo Nghệ Thuật.

Riêng phần sáng tác, sau tập truyện ngắn đầu tay Ðêm Giã Từ Hà Nội như một lên đường đầy mới lạ vào văn chương, ông đã liên tục cho ra đời gần 50 tác phẩm. Công trình sáng tác hết sức phong phú và nhiều mặt ấy gồm có 10 tập truyện ngắn, 2 tập tùy bút và 33 truyện dài, trong đó những cuốn được người đọc yêu thích nhất và được tái bản nhiều lần là Sống Chỉ Một Lần, Mười Ðêm Ngà Ngọc, Ðể Tưởng Nhớ Mùi Hương”.

Nói là giã từ Hà Nội, chia tay với quá khứ, nhưng đọc Mai Thảo, người ta sẽ nhận ra, cuộc rũ bỏ ấy ông đã làm suốt đời không xong.

Và, đó cũng chính là nguyên cớ để ông “đổ ra một biển chữ nghĩa”. Không nói thì thôi, hễ nói đến bất cứ điều gì Mai Thảo cũng có cách nói riêng của ông, và luôn luôn ào ào chữ nghĩa. Chỉ phát biểu một chút về thơ Bùi Giáng chẳng hạn, ông viết: “Ngôn ngữ và tư duy Bùi Giáng hiển lộng tới không bến không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy. Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa. Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương”.

Vì thế, đọc Mai Thảo, không phải là đọc những gì ông viết mà là đọc cái cách ông viết ra những gì ông đã viết. Một căn nhà vùng nước mặn. Một chuyến tàu trên sông Hồng. Một bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời. Ðó không phải là những cái truyện, những tên truyện. Ðó là mảnh vỡ của những cuộc đời, long lanh hạnh phúc, ràn rụa nước mắt. Không kể lại được. Phải đọc từng dòng, từng chữ của Mai Thảo, để thấy ông nghĩ, ông viết thế nào về những truyện đó, chứ không phải những gì chất chứa trong những truyện đó.

“Thời gian nghiêng đi, mỗi thước vuông không khí là một phiến ngực trần chói lọi thở, gió và nắng chan hòa lẫn lẫn, niềm kiêu vạm vỡ cuối cùng của tạo vật”, đó là cách viết cách nhìn, cách dùng chữ của Mai Thảo. Chỉ cần đọc một câu thôi, người ta có thể nhận ra ông ngay. Cầu kỳ quá chăng? Có thể như vậy. Nhưng đó là văn Mai Thảo. Và với cách viết ấy, nhiều đoạn văn của ông đạt tới vẻ đẹp chưa một nhà văn nào của chúng ta đạt tới:

“Tôi muốn bảo Luân: anh sót thương em những đêm dài trong núi, dưới mái nhà sàn cơ quan, trên những con đường hầm hố vết thương, những xóm làng hủy phá, trên những thềm nhà cỏ hoang phủ kín, trên những vì tường đổ gục, trên những thân cây chặt đứt, qua những chân cầu đổ nghiêng, trong hầm trú ẩn máy bay.


Tôi muốn bảo Luân, anh sót thương em đêm giã từ Hà Nội ra đi nhìn về Hà Nội cái rừng lửa cháy, buổi chiều đứng trên con đê Hồng Hà, buổi trưa về thăm lại Hưng Yên. Buổi ra đi bãi ấy còn xanh biếc ngô non, buổi về chỉ thấy mênh mông phù sa kín nhòa bãi cũ.


Tôi muốn bảo Luân, anh sót thương em trên những đầu ngón chân anh đi, cái hình ảnh sót thương lăn theo sỏi đá dọc đường, nằm trên từng cột cây số, từng nền lũy tre xanh, chảy theo mặt nước lúc xuống đò qua sông, khuân theo lòng đường lúc xuống đò lên bộ, từng buổi sớm xuống suối rửa mặt, cái hình ảnh sót thương trong veo trên nền sỏi trắng, từng buổi chiều không biết đi đâu, cái hình ảnh xót thương bát ngát đầy chiều.


Tôi muốn bảo Luân, anh nhớ em trong tiếng súng ban đêm, những vệt lửa dài cháy vào bóng tối, lúc bỏ núi sau lưng cái hình ảnh sót thương còn mang hình trái núi, lúc xuống đồng bằng trước mặt cái hình ảnh xót thương đã mang hình những ngọn lửa dài, lúc anh muốn chết, lúc anh muốn sống, lúc tuyệt vọng tối đen vực thẳm, khi tin yêu sáng chói mặt trời, lúc nhìn xa cái hình ảnh lớn theo ngút mắt, lúc tưởng gần cái hình ảnh thu cũng nhỏ vào một góc trái tim như một tấm hình kỷ niệm”.

Các câu chữ ấy là điển hình cho những dòng văn Mai Thảo. Ðỏm dáng. Kiểu cách. Nhưng nó cũng chính là con người ông. Như cách ông ăn mặc, uống rượu, nói chuyện, vuốt tóc, đốt thuốc. Vừa kiểu cách vừa xóa bỏ kiểu cách. Không ai quen biết ông mà không một lần nhận được ở ông môït chút tình cảm đặc biệt dành riêng cho mình, bằng lời nói, bằng cách ông đối xử. Nhưng đừng nhận là người thân của ông. Hãy để ông làm điều đó. Ông rất thành thật. Không kiểu cách. Người ta sẽ nhận ra như thế khi gặp lại ông đôi ba lần, và, cả khi đọc lại ông đôi ba lần.

NGUYỄN ÐÌNH TOÀN

Nguồn: Viet Tide

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2009

Ðinh Hùng

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

Có thể nói, tất cả các thi sĩ của chúng ta, không ít thì nhiều, ai cũng làm thơ tình.

Nhưng hình như chỉ một mình Ðinh Hùng, đã dành suốt đời thơ của mình, để làm thơ ca ngợi tình ái.

Dĩ nhiên, suốt lịch sử của chúng ta, cho đến tận hôm nay, có lẽ chưa một người nào có thể sống được nhờ thơ của mình, hiểu theo nghĩa cụ thể: sống bằng tác quyền thơ.

Ðinh Hùng cũng vậy. Ông phải sống nhờ vào những công việc khác như làm báo, dạy học, cộng tác với các đài phát thanh.

Song tất cả các công việc này chỉ giúp ông tồn tại để làm thơ. Ở miền Nam không có chế độ thi sĩ ăn lương nhà nước, nên các văn nghệ sĩ đều phải tự lo liệu lấy đời sống của mình, như mọi người khác.

Và, người ta rất tư hào về sự không lệ thuộc này.

Ðinh Hùng có làm thơ trào phúng, viết truyện hằng ngày cho các báo, và ông cũng có viết mấy vở kịch thơ nữa, nhưng sự nghiệp chính của ông vẫn là hai thi phẩm: Mê Hồn Ca và Ðường Vào Tình Sử.

Cả hai tác phẩm này đều là những tậïp thơ tình.

Gọi đó là những tập thơ tình chỉ là một cách nói giản dị.

Thực ra đây chính là vũ trụ thơ Ðinh Hùng.

Phải gọi là vũ trụ thơ Ðinh Hùng vì từ khi ông mở ra cái thế giới ông gọi là mê hồn ca ấy, ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc của ông dành cho cái thế giới đó, cho đến những ngày cuối cùng của đời ông, không hề thay đổi.

Khi Ðinh Hùng biến đổi ngôn ngữ / hình ảnh / cảm xúc của ông thành tranh, bởi vì Ðinh Hùng còn biết vẽ nữa, cái thế giới trong tranh và trong thơ của ông vẫn chỉ là một.

Nói về cái bìa tập Mê Hồn Ca do chính Ðinh Hùng vẽ, ấn bản của nhà Khai Trí, Nguyên Sa viết:

“Thiếu nữ chắp tay nguyện cầu, trên nền ngọn lửa, tóc nàng chạm vầng trăng, trong vầng trăng có chữ Thơ. Góc trái của bức tranh có hình Phật Bà ngồi trên tòa sen, hai ngọn lửa một trắng, một đỏ chìm phía dưới làm tôn sự uy nghi của Phật Bà, chứ không làm suy giảm hay biểu lộ sự đe dọa nào cả. Phía trên, bên mặt là những vì sao, phía tận cùng dưới có hình đầu lâu và chữ ký Ðinh Hùng, chữ Hùng nguyên chữ, chữ Ðinh chỉ một chữ Ð viết hoa và dấu chấm. Chim, không rõ loại, mỏ dài, không phải là bồ câu, đậu trên đầu lâu trắng hếu, dưới mỏ chim có hai trái tim. Chim màu xanh nước biển, hai trái tim màu đỏ, cùng với mặt trăng có chữ Thơ, thiếu nữ mặc áo màu xanh rêu đậm, nền trời xanh. Phía dưới góc trái có một vật hình thể dài, không phân biệt được là hình gì, có vẻ như đền đài thời xa xưa, có vẻ như kim tự tháp, cũng có vẻ như chiếc mộc của người da đỏ”.

Những hình ảnh mà Nguyên Sa nói rằng không phân biệt được trong tranh Ðinh Hùng cũng là những gì người ta cảm nhận được trong thơ Ðinh Hùng, ông không viết ra, nhưng dường như nó lẩn khuất đâu đó ở đằng sau, ở đằng trước, ở chung quanh những chữ ông viết ra, một thế giới u uẩn, gồm cả trăng sao, tín ngưỡng, chim chóc, đàn bà, cái chết và sự say đắm:

Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên em ôi biển sắc, rừng hương!
Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm
Em đến đây như đến tự Thiên Ðường
Những buổi đó ta nhìn em kinh ngạc
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ!
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
Thấy cả bóng một vừng đông thuở trước
Cả con đường sao mọc lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ!

Có người cho rằng Ðinh Hùng chịu ảnh hưởng thơ Tống, thơ Ðường, thơ tượng trưng Pháp.

Nhưng đọc những bài như Kỳ Nữ của ông hẳn người ta phải thấy đó là cái thế giới của riêng Ðinh Hùng, nó lẫn lộn giữa mộng và thực, tiền kiếp và hiện sinh, “ở bên em” mà “khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ”, trong một đôi mắt mà ông nhìn thấy cả “vừng đông”, “sao mọc” và “chiều sương”, nghĩa là một không gian / thời gian hỗn mang.

Thèm ăn một chút hương man dại
Và ngủ như loài muông thú kia

Cái thèm ấy có dinh dáng chút gì đó với con người tiền sử chăng?

Cũng có người cho rằng, Ðinh Hùng có một chút “máu xanh”, nghĩ là máu của các quan Châu, quan Lang, vùng Thượng Du Bắc Viêt, vì trong thơ ông, rừng, núi, hang, động, suối, đèo, hoa cỏ hoang vu, đóng một vai trò rất quan trọng.

Song tất cả những điều ấy, cũng chỉ dùng để làm tăng thêm nhan sắc của người đàn bà trong thơ ông, làm tăng thêm nỗi say đắm trong lòng ông đối với các nàng thơ của ông thôi:

Ta run sợ cho yêu là mệnh số
Mặc tay em đinh hộ kiếp ngày sau
Vì người em có bao phép nhiệm màu
Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc
Ta đặt em lên ngai thờ nữ sắc
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da
Buổi em về xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết
Ôi cam dỗ! Cả mình em băng tuyết
Rợn xuân tình lên bộ ngực thanh tân
Ta gần em mê từng ngón bàn chân
Mắt nhắm lại để lòng nguôi gió bão

Nói tóm laị, có thể nói Ðinh Hùng mới thực sự là thi sĩ của tình ái.

Tất cả thơ của ông, chỉ là những lời ngợi ca tình ái, dù ở trong đó có gai sắc làm chảy máu, có những giấc mơ dữ dội, có hương trầm trên các lối đi, trời đất đều thơm tho bởi vì có em trong đó, ông yêu từ lúc chưa gặp

Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
cho đến lúc người không còn nữa:
Nằm trong đáy mộ chắc em sầu
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu

Ðinh Hùng cũng là thi sĩ duy nhất cho ta thấy hình như tình yêu nối được cả đời sống và cõi chết, biến hung bạo thành dịu dàng và ngược lại

Hỡi kỳ nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần, ôi sắc đẹp yêu ma
Lúc cuồng si nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết

Ðinh Hùng muốn nói gì thì nói, thơ ông chỉ có một ý nghĩa: đó là những lời tỏ tình.

Hay nói theo cách nói của chính Ðinh Hùng:

Ta, suốt đời ngư phủ
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Nguồn: Viet Tide

Quách Tấn

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Quách Tấn là một hiện tượng đặc biệt của thi ca Việt Nam.

Trong khi những nhà nho cuối cùng của chúng ta như Tản Đà, Phan Khôi gần như không còn ai làm thơ Đường luật nữa, và phong trào thơ mới cũng đang bước dần sang thế giới thơ tự do với những Nguyễn Xuân Xanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đình Thi; Quách Tấn vẫn sống lặng lẽ với “vũ trụ thơ ngũ ngôn, thất ngôn bát cú” của ông.

Trước 1975 ông còn cho xuất bản nguyên một tập thơ sáng tác theo phong cách ấy, lấy tên là Mùa Cổ Điển.

Hai chữ “cổ điển” chính ông dùng để gọi thơ mình, hình như không hề có ý thách thức hay so sánh vơí bất cứ một hình thức thơ mới / cũ nào. Nó chỉ khẳng định công việc của ông.

Nói Quách Tấn lặng lẽ sống, không phải chỉ vì ít người, rất ít người gặp ông, biết ông như một người làm thơ, một thi sĩ. Người ta không bao giờ thấy ông tới một nơi nào để hội họp bàn chuyện văn chương, phát biểu ý kiến, phê bình, khen chê người này hay tác phẩm nọ, ở một địa điểm công cộng nào.

Hình như ông cũng ít di chuyển, đi đây, đi đó.

Ông ở Huế, hay thật ra, phần lớn người ta phỏng đoán như vậy, vì đọc thơ ông:

Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng
Sầu vương lau lách lạnh thành hoang
Tro tàn thơ viện duyên ngao ngán
Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng
Gầy gọ cỏ sương tùng Thế Miếu
Bẽ bàng trăng nước trúc Huơng Giang
Trông vời Thiên Mụ mây man mác
Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng

Nhớ xưa, Tản Đà sau đôi lần vào Nam ra Bắc, có lúc ngồi kiểm kiểm lại cuộc đời cầm bút của mình, đã viết trên tờ Đông Pháp Thời Báo số ra ngày 17 tháng 12 năm 1927 như sau:

“Tôi từ theo nghề quốc văn kể có tới gần mười lăm năm, lên bổng xuống trầm, vào trong ra đục, phong trần chẳng quản, phi nghị mặc ai, thực cũng mong tựa văn chương để có ít nhiều sự nghiệp. Mới đây, tôi ở Hà Nội vào Nam, thăm Thuận An, qua Đà Nẵng, trải Hoành Sơn, Hải Vân, một lần đường bộ, hai lần đuờng thủy, càng thấy giang sơn ta là to, càng mới biết văn chương là rất nhỏ mà bao nhiêu cái tư tưởng muốn lấy văn chương làm sự nghiệp, tự nhiên như bọt bể mây ngàn”.

Đó đây không thiếu những nguời khuyến khích, tán dương những chuyến du hành, nhất là đối với các văn nghệ sĩ, coi đó như một điều kiện cần thiết để sáng tác.

Về chuyến đi xa và dài tới tận nước Mỹ của mình, Võ Phiến lại cảm nhận thêm một điều gì đó, vừa khôi hài vừa bi thảm nữa. Một bữa đi vãng cảnh núi non tại Quốc Gia Lâm Viên Hồng Sam, nhìn cây hồng sam có cái tuổi khoảng 4000 năm, gần ngang với tuổi của Tổ Hùng Vương, tần mần cho mấy ngón tay ngoáy vào những lỗ đá lớn bằng miệng chén trà, thổ dân Da Đỏ xưa đã dùng như là một thứ cối để nghiền thức ăn, Võ Phiến bỗng băn khoăn tự hỏi:

“Một đứa bé sinh trưởng ở làng quê dưới chân dãy Trường Sơn bên Việt Nam như mình sao lại đến nỗi có ngày ngồi ngẩn ngơ giữa một cao độ um tùm miền Tây lục địa Mỹ Châu thế này?”

Như thế, đi nhiều, đi xa, và có đi thật xa chăng nữa, đó là điều hay hay dở quả thật cũng khó biết. Nó lại còn tùy thuộc mỗi người nữa.

Trước 1975, ở Sài Gòn, cũng hiếm khi người ta thấy bóng Quách Tấn, hoặc giả ông có vào, nhưng ngay cả trong văn giới hình như ông cũng không giao du.

Ngay thơ ông, thỉnh thoảng lắm mơí thấy xuất hiện trên báo, thường là chỉ trong các số đặc biệt như số Xuân chẳng hạn.

Đọc thơ Quách Tấn người ta thấy, cái mà ông yêu nhất có lẽ là sự lặng lẽ, yên tịnh:

Chim chiều kêu trước giậu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng

Ông sống với sự lặng lẽ tìm thấy, nghe thấy và cả nhìn thấy quanh mình:

Nghìn xưa trang giấy lật
Hiu hắt ngọn hàn đăng
Tháo kính ra thềm đứng
Cành rơi đôi giọt trăng

Quách Tấn đã mất tại Huế ngày 21 tháng 12 năm 1992.

Nghe nói trước khi mất ông đã phải trải qua những ngày khó khăn, tang thương lắm.

Đọc lại thơ ông, nghĩ tới những nỗi biển dâu trong đời, người ta bỗng thấy cái tịch mịch, lặng lẽ trong thơ ông, thấm qua mình như một sự xóa bỏ không cưỡng lại được.

Nhưng xóa bỏ cái gì đây?

Đêm xóa bỏ ngày. Cái chết xóa bỏ đời sống. Quên xóa bỏ nhớ.

Danh lợi mình không tranh với ai
Vườn không rào kín ngõ không cài
Sân lồng gió biển cháu kèo mận
Hiên ngát hương trời ông thưởng mai
Đầu bạc tuổi xanh xuân vẫn một
Chim vàng bướm trắng thú chung đôi
Bên đường em bé nhủ mua báo
Rằng: nhạn đưa tin đã đến rồi

Bài thơ Đường luật, vận / đối nghiêm chỉnh, nhưng hình ảnh, ý tứ, lại có vẻ gì đó nửa tân kỳ, nửa cổ điển: hiên mai, kèo mận, bán báo, nhạn đưa.

Nếu thơ là nơi ẩn trốn của người làm thơ thì cùng một lúc nó cũng cho thấy đó là một nơi ẩn trốn không an toàn.


NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Nguồn: Viet Tide

Cao Đông Khánh

Chúng ta có nhiều nhà văn miền Nam, viết theo phong thái và ngôn ngữ đặc thù của miền Nam như Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Cháùnh, Phi Vân rồi Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên tới Nguyễn Thị Thụy Vũ, Hồ Trường An, Huỳnh Phan Anh, Trần Thị Ngh., Kiệt Tấn v.v... Nhưng về thơ thì hình như sau Nguyễn Đình Chiểu chỉ có Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt và gần đây nhất là Cao Đông Khánh.


Tuy vậy, về phương diện thuần chất miền Nam thì thơ Tô Thùy Yên cũng như Trần Tuấn Kiệt không còn thuần chất lắm, nó đã chín phần mười nhập vào cái thăng hoa của ngôn ngữ Việt nói chung.

Thơ Cao Đông Khánh giữ được nhiều bản sắc miền Nam hơn:

sàigòn, chợ lớn như mưa chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về xóm chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm giấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông
sàigòn khánh hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiếng
ngã tư quốc tế đứng sàng xê
gánh nước nặng hơn vác thánh giá
má đỏ hình như rượu mới hồng

Có thể Cao Đông Khánh làm thơ đã từ lâu. Nhưng chỉ từ khi ra hải ngoại sau biến cố 75 thơ ông mới được phổ biến và được nhiều người biết đến.

Theo nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh trên báo Phố Văn thì:

“Thơ Cao Đông Khánh xuất hiện khi làn sóng thuyền nhân lên cao độ những năm 80-81, khi lương tâm nhân loại phải đương đầu với thảm kịch thuyền nhân Việt Nam, khi những tuyên truyền khuynh tả và chủ nghĩa bạo tàn đã để rơi mặt nạ. Thủ phạm đã rõ nhưng nạn nhân cũng đã quá nhiều, hàng trăm ngàn người trong số hơn hai triệu thuyền nhân rời bỏ quê hương đã không bao giờ đến bến. Họ, những thảm kịch mà công luận quốc tế cuối cùng đã biết đến, đã nhìn thấy, họ đã bỏ mình nơi biển cả, trong rừng sâu, vì bạo lực, vì bất nhẫn của người đối với người... Cao Đông Khánh là thuyền nhân, ông đã sống cái bi tráng đó và ông đã dùng thơ để lên tiếng.

Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn là một tuyển tâïp những bài thơ Cao Đông Khánh đã sáng tác trong hai thập niên từ 1976 đến 1996, gồm đủ mọi thể loại từ lục bát đến thơ văn xuôi. Và bài nào của ông hình như cũng có dấu vết máu và nước mắt các cuộc biến đổi tang thương trên đất nước dù ông có nói đếùn điều gì chăng nữa.

“Nơi em ở đó lâm li tình ái, mà, em nỡ bỏ đi, không ai có thể hiểu nổi. Cái trái ô môi đậm đà hơn đường mật, cái thơm cái khóm ngọt ửng màu phèn, cái xe thổ mộ rềnh rang lục lạc, cái con nhỏ hồi xưa tóc cài hoa thiên lý, mà, lí em về dọn dẹp hồi xưa, dọn anh ra khỏi quốc gia, dọn Việt Nam ra hải phận quốc tế.


Anh mang khối tình còn e lệ đi chu du.


Trên núi mây ngũ sắc, ngoài biển gió mưa hòa thuận anh gầy lại miếng đất thân sinh, lập trang trại gia bảo. Anh chọn con ngựa trong mười hai con giáp, anh tra khớp bạc, anh thắng kiệu vàng, anh phi nước kiệu đưa nàng đi thăm cổ tích, có chiếc lá rơi biến thành chim vành khuyên đậu trên vai người hóa đá”.

Thật hụt hơi. Ta tưởng chừng như đang nghe một bài vọng cổ, được ca bằng một giọng tài tử nhưng có thừa ngọt ngào, vừa oán trách vừa thiết tha.

Kể lể với đời, kể lể với tình. Ai kể? Ai nghe? Cuộc tan vỡ mỗi người mang một ít trong máu, nghe nói thì hiểu ngay, chẳng cần biết đó là chuyện của ai. Bài vọng cổ không phải đời sống, nhưng có bao nhiêu đời sống mất đi mới thành bài vọng cổ, hát lên và nghe hát là có thể khóc, không phải khóc những gì ở ngay trong bài vọng cổ, mà khóc cái xa hơn, khóc người đã trở thành bóng, khóc xóm củi, khóc cái bến tắm ngựa, khóc chuyến xe buýt đậu trước cửa chợ Bà Chiểu, em mặc áo dài đen bước xuống... rồi biển lấp đi tất cả...

như vậy đó, biển hằng ngày tăng trưởng
biển mọc trong đầu biển khắp tay chân
biển xót xa em từ cái răng cái tóc
con mỹ nhân ngư này tên gọi thuyền nhân
em nói chồng em chết tù cải tạo
những đứa con ngọc ngà chết ở biển đông
còn đứa trẻ khôi ngô này sinh ở trại tị nạn
cha nó đang làm hải tặc Thái Lan

Có chỗ nào cho thơ trong những chuyện đớn đau như thế? Cao Đông Khánh viện dẫn đến cả những lời nói thông thường của các người bán hàng rong, các tay anh chị, cả những chữ líu lưỡi của dân nhậu không chừng:

Để anh nhắc ngày anh ra biển
chặt một chân để lại làm tin
hãy xẻ khô cất làm lương thực
em ráng sống giùm anh nghe em
nghe đó em người làm nhân chứng
tình yêu này như hỏa diệm sơn
Để anh kể cho em tưởng tượng
một đêm, gió khô hết hơi thở
người chết dưới biển lên đảo viếng thăm

Nguyễn Vy Khanh đã nói đúng: “Thơ Cao Đông Khánh không phải là văn chương mà trước hết là ngôn ngữ và tiếng nói.”

Thật vậy, người đọc thường phải đương đầu với một ngôn ngữ quá đà, thô tục, một ngôn ngữ tuyệt vọng nẩy sinh tiếng cười khinh mạn, châm biếm, những thành ngữ bẻ cong bẻ ngược như tiếng lóng trao đổi ở đầu đường vô nghĩa.

Thơ Cao Đông Khánh phải đọc lớn tiếng và nếu được, trước người khác, hình như mới hay, vì với Cao Đông Khánh, ý của ngôn ngữ chính là ở ý của lời nói: Bài thơ bỗng rưng rưng / lời mặc khải viết xuống thành chữ / chữ hiện hình xinh đẹp”.

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Nguồn: Viet Tide

Vũ Bằng

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN



Vũ Bằng là một trong những nhà văn tiền phong của chúng ta. Ông viết văn, viết báo rất sớm. Năm 16 tuổi, còn đang là một học sinh trung học, ông đã có sách in ra, đó là cuốn Lọ Văn, châm biếm người đồng thời.

Những tác phẩm chính của Vũ Bằng đã được xuất bản gồm có:

Lọ Văn [Tạp văn]

Một Mình Trong Đêm Tối [Tiểu Thuyết]

Truyện Hai Người [Tiểu Thuyết]

Tội Ác Và Hối Hận [Tiểu Thuyết]

Để Cho Chàng Khỏi Khổ [Tiểu Thuyết]

Khảo Về Tiểu Thuyết [Biên Khảo]

Miếng Ngon Hà Hội [Tạp Văn]

Phù Dung Ơi Vĩnh Biệt [Sau đổi thành Cai, Tự Truyện ].

Bốn Mươi Năm Nói Láo [Hồi Ký]

Thương Nhớ Mười Hai [Tạp Văn]

Được biết, đương thời Vũ Bằng cộng tác với rất nhiều báo, viết nhiều mục khác nhau, ký nhiều tên khác nhau, nên có thể còn rất nhiều bài vở của ông chưa được sưu tầm đầy đủ.

Nhưng qua những gì đã được in thành sách, người ta đã được đọc, có thể coi như tầm quan trọng của hai vai trò nhà văn và nhà báo của ông ngang nhau.

Ông đã lăn xả vào nghề làm báo, bỏ dở cả học hành, phụ cả ước mơ của thân mẫu những ước muốn ông trở thành một bác sĩ. Song chính nhờ những người như ông mà nền báo chí của chúng ta đã trưởng thành mau chóng.

Hồi ký Bốn Mươi Năm Nói Láo của ông, tuy ông viết về mình, rõ hơn, viết về việïc theo đuổi cái nghiệp viết văn, làm báo của mình, nhưng qua tác phẩm này, người đọc có thể hình dung lại được một phần sinh hoạt báo chí Việt Nam hơn nửa thế kỷ trước. Cũng qua Vũ Bằng, người ta được biết nhiều chuyện vui buồn liên quan đến các nhà văn, nhà báo kỳ cựu của chúng ta môt thời như: Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tích Chu, Tam Lang, Phùng Tất Đắc, Vũ Trọng Phụng, Đào Trinh Nhất, Tản Đà, Nam Hương, Nhượng Tống...

Ngay từ những ngày đầu tiên ấy, ông đã ý thức rõ ràng về cái nghề làm báo của mình. Vũ Bằng viết:

“Bây giờ người ta gọi nghề làm báo là nghề nói láo ăn tiền. Kẻ viết bài này đã ngã vào cái nghề đó từ lâu, hôm nay ngồi giở lại cuốn sổ ký ức của mình, xin nhận ngay là mình làm nghề nói láo, Vì thế, tác giả lấy đầu đề tập ký ức này ‘Bốn Mươi Năm Nói Láo’ chứ không dám đề là ‘Bốn Mươi Năm Làm Báo’. Vì tác giả nhận thấy rằng, nói láo là một cái vinh dự, làm nghề nói láo là một nghề đặc biệt ít ai dám đem ra khoe khoang. Thực vậy, đa số các nhà làm báo bây giờ, nghe thấy danh từ ‘làm báo nói láo ăn tiền’ ngoài mặt thì có vẻ bất cần, nhưng trong thâm tâm thì hơi giận: tại sao làm một cái nghề cao quý như nghề báo, tại sao lãnh một cái sứ mạng nghiêm trọng là hướng dẫn dư luận, tại sao phục vụ một quyền lực lớn mạnh vào bậc thứ tư trên trái đất này mà có người dám bảo là nghề nói láo?”.

Nghề báo đến với nước ta muộn so với các nước Âu Mỹ. Vậy người Âu Mỹ nghĩ sao về nghề báo?

Carlyle cho rằng: “Cao quý thay nghề làm báo. Một ông chủ báo có khả năng há chẳng phải là một nhà cai trị thế giới, vì là người thuyết phục thế giới, mặc dầu không do thế giới cử mà do mình cử mình thôi, tuy nhiên cũng được bằng con số báo bán ra cho thiên hạ”.

Còn văn hào Đức Goethe thì lại nói về báo chí bằng những lời chua chát: “Từ lâu, tôi vẫn tin rằng báo chí ra đời, là đề tài để cho dân chúng người ta tiêu khiển giết thì giờ và lòe bịp họ nhất thời, hoặc vì có một sức mạnh nào ở bên ngoài ngăn viên ký giả nói ra sự thực; hoặc vì tinh thần đảng phái đánh cho y lạc hướng đi, vì thế tôi không đọc một tờ báo nào hết”.

Vũ Bằng cho biết, khi ấy chưa có một trường nào dạy viết văn, làm báo, ông đã đọc và học thuộïc thơ của Tản Đà, Nam Hương, Nhượïng Tống, Thi Nham, Đàm Xuyên, để rồi bắt chước.

Đọc những dòng tâm sự của ông, người ta vừa buồn cho ông, vừa buồn cho đất nước:

“Mục đích của tôi là thuật lại thật đúng các giai đoạn làm báo nói láo ăn tiền của tôi để nhân đó may ra có nhận thấy diễn tiến của nghề báo ở nước ta như thế nào. Thêm nữa, tôi bắt đầu làm báo từ khi người mình còn sống dưới sự đô hộ của Pháp, qua thời kỳ Nhật vác kiếm lê trên mặt đất, đá Pháp một cú vào mông, rồi đuổi đi, đến Việt Minh bí mật, rồi Nhật thua, Việt Minh nắm chính quyền, rồi Pháp trở lại, rồi Pháp thua Điện Biên Phủ, ký hiệp định Geneve chia đất nước làm đôi, vác va li vào Sài Gòn hầu hạ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, cho tới bây giờ sống nhờ vào quân đội Mỹ ô kê, sa lem... rất có thể cứ thuật lại hết những giai đoạn nói láo của mình, chưa biết chừng lại vẽ lại được một giai đoạn đau thương tang tóc, đã qua”.

Vũ Bằng cũng kể lại trong Bốn Mươi Năm Nói Láo cuộc gặp gỡ của ông với ông Phùng Tất Đắc, khi ấy đang là chủ bút báo Đông Tây, như sau:

“Tôi được gặp ông Phùng Tất Đắc lần đầu tiên vào một chiều tắt nắng, nhân dịp yết kiến Hoàng Tích Chu, tại trụ sở báo Đông Tây, số 12 phố Nhá Thờ.


Vừa mới thấy ông Đắc ngồi ở bàn viết, ở cửa đi thẳng vào, tôi đã biết ngay, không phải đã được ông tự giới thiệu, nhưng tại chính tôi được biết vì có bạn bè, trước đó, đã chỉ ông cho tôi rồi, ngồi xuống ghế, nói với ông câu đầu tiên, máu tôi chảy có một vòng, phần vì sợ văn ông, phần vì vẫn nghe tiếng ông là con nhà giàu ở Nam Thành, thạo đời ‘một cây’, lại có tiếng là tay ăn chơi ‘sộp’... tôi luống cuống và cảm thấy tay chân thừa cả, không biết giấu chỗ nào”. Ông Đắc mặc Âu phục, vén tay áo sơ mi lên ngồi rung đùi khảo cứu Nho Giáo. Bên cạnh cuốn sách của Lệ Thần Trần Trọng Kim, tôi thấy một chồng sách chữ Nho. Đêm hôm ấy, về nằm nhớ lại buổi ban chiều, tôi chán đời không thể tả, vì thấy Phùng Tất Đắc, tôi quan niệm muốn viết báo cho ra viết báo, muốn sử dụng ngòi bút tài tình như ông Đắc trong mục ‘Trước Đèn’ của báo Đông Tây, người ta phải thông kim bác cổ, thạo cả chữ Hán lẫn chữ Tây”.

Sau này, năm 1964, khi ông Phùng Tất Đắc cho tái bản cuốn Trước Đèn, người đề tựa cho cuốn sách lại chính là Vũ Bằng đấy!

‘Người xưa’ đối xử với nhau như thế không lạ sao? Không đẹp sao?

Nói chung các cuốn tiểu thuyết của Vũ Bằng không được nhiều người đọc như các cuốn tạp văn của ông. Ngay cả cuốn Luận Về Tiểu Thuyết, được viết vào một thời chưa một ai [trong nước] bàn về lý thuyết của bộ môn nghệ thuật này, cũng không được mấy người muốn vào nghề tìm đọc.

Hai cuốn tạp văn Miếng Ngon Hà Nội và Thương Nhớ Mười Hai được độc giả hoan nghênh hơn nhiều. Ở các cuốn này, văn ông trau chuốt, đôi khi đọc, người ta có cảm tưởng như đang đọc những bài thơ xuôi.

Sau đây là một đoạn Vũ Bằng viết về Phở: “Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú, một nhúm bánh phở, hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc, mấy nhát gừng màu vàng thái mướt như tơ, mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên, vừ đỏ sẫm như hoa lựu... Ba bốn thứ màu sắc đó, cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể, của một họa sĩ trong phái Văn Nghệ Tiền Tiến, dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp mắt.


Trên tất cả mấy thứ đó, người bán hàng bây giờ mới thái thịt bỏ từng miếng bày lên”.

Trong văn chương của chúng ta không biết đã có bao nhiêu người viết ca ngợi ‘cốm’, cái món ăn đặc sản này của dân tộc? Và cũng không biết trên thế giới những dân tộc nào chế biến được món ăn tương tự, dù họ có trồng lúa? Đó là điều người ta không thể không có lúc cảm thấy thầm hãnh diện tựï hỏi, khi đọc vũ Bằng viết về cốm Vòng, vì ngoài cái ngon còn có cái đẹp của món ăn nữa:

“Cốm Vòng quả là một thứ quà đặc biệt nhất trong mọi thứ quà Hà Nội, đặc biệt vì cứ mỗi khi thấy gió vàng hiu hắt trở về thì lại nhớ đến cốm, mà đặc biệt hơn nữa là khắp các nẻo đường đất nước, chỉ có Hà Nội có cốm thôi!


Có những hình ảnh đẹp quá, thoáng qua trước mắt một giây, mà ta nhớ không bao giờ quên.


Bây giờ nghĩ lại cái đẹp não nùng của cốm Vòng xanh màu lưu ly để ở bên cạnh những trái hồng trứng thắm mọng như son tàu, tôi thích nhớ lại một buổi chiều đã xa lắm rồi, có một nhà nọ đưa hồng và cốm sang sêu một người em gái tôi.


Trên một cái khay chân quỳ, khảm xà cừ, đặt ở giữa án thư, hai gói cốm bọc trong lá sen được xếp song song còn hồng thì bầy trong một cái giá, dưới đệm những lá chuối xanh nõn, tước tơi, để ở trên mặt sập”.

Lại không phải chỉ có cái ngon, cái đẹp, qua ngòi bút Vũ Bằng còn có cả cái tình bên những món ăn nữa.

Đoạn Vũ Bằng nói về món “hổ lốn”, tức là những món ăn dư của những ngày giỗ, tết, bỏ “hầm bà làng” vào nồi đun nóng, thêm vào chút ít rau cỏ, cũng đáng được đưa vào các cuốn “thi văn trích diễm”:

“Ngoài sân mưa, mưa lăn tăn làm ướt giàn thiên lý. Mấy con ngỗng trời bay tránh rét, buông ở trên màn trời xám màu chì mấy tiếng đìu hiu. Cơm vừa chín tới, ‘hổ lốn’ lại nóng hổi, bốc khói lên nghi ngút, mà ngồi ăn ở trong một căn phòng ấm cúng với người vợ má hồng hồng vì mới ở dưới bếp lên, có họa là thất phu lắm mới không cảm thấy cái thú sống ở đời”.

Cuốn Thương Nhớ Mười Hai xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 được rất nhều người đọc và coi ông như một trong những nhà văn viết tùy bút hay nhất của chúng ta.

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

Phạm Hoàng Hộ

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN


Nhớ lại các năm trước 1975, bộ sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ còn mang tên là Cây Cỏ Miền Nam. Cuộc chia cắt đất nước đã giới hạn tầm mức của cuốn sách.

Thế nhưng công trình của giáo sư Phạm Hoàng Hộ không phải chỉ được coi là quý đối với các nhà chuyên môn về thực vật học.

Nhà văn Võ Phiến có kể lại trong bộ sách Văn Học Miền Nam, soạn thảo tại hải ngoại của ông sau biến cố 75, nhiều nhà văn đã tìm đọc cuốn Cây Cỏ Miền Nam để biết thêm về một vài loại cây cỏ quanh mình, để khi cần, có thể đưa vào tác phẩm.

Nói chung, hình như chúng ta ít chú ý đến hoa cỏ, cây lá quanh mình, ít chú ý tới thiên nhiên.

Đối với rất nhiều người, phân biệt thế nào loại ẩn hoa hay hiển hoa, thế nào là giống một lá mầm với giống hai lá mầm là một việc khó khăn, và e rằng số người hoàn toàn không biết gì còn nhiều hơn nữa.

Bác sĩ Mai Kim Ngọc kể về một vài kỷ niệm của ông đối với giáo sư Phạm Hoàng Hộ như sau:

“Tôi có dịp được quan sát giáo sư khá gần trong giai đoạn đầu của cuộc đời sư phạm của ông. Đó là những năm sau hiệp định Geneve, miền Nam mới khai sinh như một tân quốc gia, có tổng thống, có tối cao pháp viện, có quốc hội, có viện đại học và có đại học khoa học. Từ thế nhìn của một sinh viên sinh vật học năm thứ nhất, tôi đã quan sát giáo sư vừa tốt nghiệp khoa thực vật tại Pháp trở về. Thầy tôi là tiến sĩ Roger, người Pháp, giản dị, khiêm tốn, hiền từ. Ông mặc quần short và áo sơ mi kaki có cầu vai và nắp túi, kiểu phổ thông bấy giờ. Tôi nhớ giáo sư Hộ rất giống thầy Roger, chỉ khác ở chỗ chủng tộc màu da một Pháp một Việt, ở chỗ tuổi tác một già một trẻ, ở chỗ mái tóc giáo sư còn xanh và dày và trán không hói như trán thày Roger. Nhưng họ vẫn giống nhau như anh em ruột, vì cái thần thức trong sáng của những nhà giáo kiêm khảo cứu gia của thế giới”.

Được biết giáo sư Phạm Hoàng Hộ có ở lại Việt Nam một thời gian sau biến cố 75, và như các đồng nghiệp và những người quen biết của ông cho biết, giáo sư đã ăn cơm hẩm đạp xe cọc cạch để mong cho đất nước đi lên, nhưng cuối cùng ông đã phải gọi đó là thời “ảo vọng”, để bầy tỏ sự cay đắng, thức tỉnh của một người trí thức miền Nam, trước sự lật lọng, độc ác, dốt nát của những người thắng trận, tạo ra một thời đen tối của đất nước.

Giáo sư Hộ đã đề tăng công trình của ông cho:

“Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.


Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.


Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.

Riêng về địa hạt chuyên môn, nhờ sự thống nhất đất nước, ông đã được dịp đi về các tỉnh miền Bắc như Thái Nguyên, Hòa Bình, Quảng Ninh, Lào Cay, Lai Châu và nhất là ngọn Fan-Si Pan ngọn núi cao nhất của bán đảo Đông Dương để nghiên cứu và sưu tập của ông đã tăng thêm được 2500 loại thực vật, và, nó còn được đổi tên là Cây Cỏ Việt Nam.

Cây Cỏ Việt Nam do nhà xuất bản Mekong Printing ấn hành, gồm 3 cuốn, mỗi cuốn 2 tập, tổng cộng 3599 trang chưa kể phần phụ lục và tự vựng, bao gồm thêm cả công trình những năm giáo sư rời bỏ Việt Nam sang Pháp, rồi qua Canada, mặc dầu tuổi đã cao, giáo sư vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc. Từ những thành quả đã thâu lượm được giáo sư cho hay, ông cũng đang sắp đặt và khai triển thêm để soạn bộ dược thảo.

Theo bác sĩ Mai Kim Ngọc thì tác phẩm của giáo sư Hộ sẽ không chỉ về dược thảo nói chung mà về dược thảo Việt Nam.

Riêng cuốn Cây Cỏ Việt Nam, với kỹ thuật tin học hiện đại còn có thể sắp xếp thành một bộ tự điển đa dạng dưới hình thức y học, thảo mộc học, kinh tế học, nhân chủng học, thổ ngơi học. Bộ sách còn có thể là món quà vô giá cho những người thiết tha về văn học nghệ thuật mà chuyện đẹp bao gồm thiên nhiên trong đó có hơn vạn cây cỏ mà giáo sư Hộ đã đếm, đã vẽ.

Thật hết sức cảm động khi đọc những cảm nghĩ của bác sĩ Mai Kim Ngọc về cuốn sách. Chúng ta có cảm tưởng được chia sẻ dưỡng khí, sự tôn kính, lòng biết ơn và cái đẹp... những gì thực sự là giá trị của cuộc sống, những thứ chúng ta cứ mất dần đi kể từ sau biến cố 1975.

Bác sĩ Mai Kim Ngọc viết:

“Sách là hình ảnh của một đời tận tụy của một khoa học gia, và mỗi chương là mỗi gian khổ cũng như hoan lạc của một trí thức đàn anh trong những năm lịch sử vừa qua. Trong khi đất nước nổi trôi qua những chặng đường phong kiến, ngoại thuộc, chiến tranh, hòa bình, cộng sản, kinh tế thị trường, kinh tế tư bản, có những người sắt son đầu tư cuộc sống của mình vào những chuyện thầm lặng khiêm tốn mà giá trị vô song, với tham vọng lớn nhất là không bỏ sót một lá cây, ngọn cỏ của kho tàng đất nước, là bảo vệ rừng già, bảo vệ thiên nhiên, là giữ gìn đất đai cha ông để lại cho con cháu đời đời. Vui về công trình của một nhà thực vật nuôi dưỡng bởi miền Nam nói riêng và thế giới tự do nói chung, đã là một mẫu mực cho sự đóng góp của người trí thức cho đất nước, hay rộng lớn hơn cho đời sống. Giá có một công trình tương tự trong mỗi bộ môn, như bệnh lý Việt Nam, hành chánh Việt Nam, kiến trúc Việt Nam, đê điều Việt Nam, cầm thú Việt Nam, hành chánh Việt Nam, luật pháp Việt Nam v.v... thì ta đã đương nhiên tạo dựng được một nền tảng cụ thể cho một nền văn hóa văn minh Việt Nam, ngoài chuyện 4000 năm văn hiến và một ít trống đồng, đồ gốm”.

NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

Nguồn: Viet Tide

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2009

09.09.09 Ngày Beatles' Remastered sẽ được phát hành cùng lúc với Beatles: Rock Band game

Ngày 9.9.09 sắp tới, Apple Corp. sẽ cho ra mắt cả collection đã remastered lại, cùng lúc đó sẽ ra mắt Beatles: Rock Band.

Uớc gì tôi còn nhỏ để dụ khị ba mẹ mua interactive game này. Còn tôi chắc là không mua cho tụi nhóc con tôi chơi, phần vì mắc, phần vì chơi games không tốt, ảnh hưởng việc học của tụi nó. (Đúng là mâu thuẫn :-)

http://www.nytimes.com/2009/09/06/arts/television/06schi.html?hpw

Trailer:

http://video.nytimes.com/video/2009/06/02/multimedia/1194840637235/trailer-the-beatles-rock-band.html


Trò chuyện với Lê Thị Ý: Tác giả ‘ngày mai đi nhận xác chồng’

Cuối thập niên 70, trong bối cảnh chiến tranh lên cao điểm, ca khúc “Tưởng Như Còn Người Yêu” do Phạm Duy phổ nhạc từ thơ của Lê Thị Ý gây xúc động lớn lao cho người nghe.

Nhà thơ Lê thị Ý xuất thân trong một gia đình văn nghệ. Người anh lớn là nhà thơ Vương Ðức Lệ, người chị lớn là nhà văn Phượng Kiều và cô em gái là nhà văn Lê Thị Nhị.

Lê Thị Ý làm thơ rất sớm, từ lúc còn học trung học và viết đều hơn khi theo gia đình vào Nam năm 1954.

Nhân dịp từ Virginia đến California ra mắt tác phẩm mới tại phòng sinh hoạt Lê Ðình Ðiểu của nhật báo Người Việt, bà đã dành cho biên tập viên Ðinh Quang Anh Thái cuộc nói chuyện thân mật sau đây.






-ÐQAThái: Tình khúc “Tưởng Như Còn Người Yêu”, thơ của bà, Phạm Duy phổ nhạc; tựa đề khởi thủy của bài thơ là gì ạ?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Lúc bấy giờ vào năm 1970, tôi viết 10 bài thơ trong tập thơ “Mười Bài Thương Ca”; bài mà Phạm Duy phổ thành ca khúc là “Thương Ca 1”.

-ÐQAThái: Phải chăng chính bà là người góa phụ đi nhận xác chồng trong bài thơ?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: (cười thoải mái) Không. Cho tới bây giờ tôi vẫn độc thân.

-ÐQAThái: Vậy, bà lấy cảm xúc từ đâu để viết nên bài thơ bất hủ này?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Lúc đó là năm 1970, tôi sống tại Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt, chỉ thấy lính, vợ lính, xe tăng, xe Jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà tôi ở gần nhà xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác chồng. Tôi thấy đàn bà, con nít đến lật cái poncho quấn xác để nhìn mặt người thân, cảnh đó khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng nỗi đau của những người có chồng chết trận là nỗi đau của chính mình. Thành thật, tôi vô cùng xúc động và chính tôi sống bằng hình ảnh những người vợ lính, vợ sĩ quan khóc bên xác chồng. Nỗi buồn đau đó là nỗi buồn đau của mình.

-ÐQAThái: Bài “Thương Ca 1”, Phạm Duy phổ nhạc, ngay khi được phổ biến, đã chiếm tâm hồn người nghe. Nhưng cũng có người lên án bài này “phản chiến”; bà nghĩ sao ạ?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Khi tôi làm thơ, tôi xúc cảm thế nào thì tôi viết ra như thế. Thế thôi. Tôi không nghĩ gì khác cả. Bài thơ được phổ biến cũng là một sự ngẫu nhiên.

Một người bạn của anh Vương Ðức Lệ tôi đến nhà chơi, thấy bài thơ bèn đưa cho cụ Nguyễn Ðức Quỳnh - người trụ trì sinh hoạt “Ðàm Trường Viễn Kiến” ở nhà cụ tại Sài Gòn quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo - Cụ Quỳnh đọc, thấy hay bèn đưa cho ông Phạm Duy phổ nhạc. Cho nên, bài thơ của tôi được mọi người thương hoặc cho là phản chiến thì cũng là việc tình cờ thôi, may mắn thôi, chứ tôi không chủ ý trước việc phổ biến bài thơ.

-ÐQAThái: Khi phổ thành ca khúc, hình như Phạm Duy có sửa vài lời trong bài thơ?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Ðúng vậy. Có lẽ ông Phạm Duy sửa vài chữ cho nó hòa hợp với âm điệu bài nhạc hơn. Có câu ông Phạm Duy cắt bớt. Thí dụ câu tôi viết, “Chiếc quan tài phủ cờ màu, hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng” thì Phạm Duy sửa thành “Bây giờ anh phủ mầu cờ” và cắt đi câu thơ kế tiếp.

-ÐQAThái: “Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng”, tại sao lại phũ phàng ạ?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Khi đau đớn thì cái gì cũng phũ phàng cả. Phũ phàng là hình ảnh đau đớn, quằn quại.

-ÐQAThái: Khi nhạc sĩ Phạm Duy đổi chữ và cắt bớt câu thơ như vậy, là tác giả, bà có thấy mất đi nguyên ý khi cảm xúc sáng tác không?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Tôi không nghĩ gì và cũng không thắc mắc, không để ý chuyện đó, vì khi tôi làm thơ, tôi theo vần điệu của thơ, còn ông Phạm Duy làm nhạc thì ông cảm hứng theo nốt nhạc.

-ÐQAThái: Hỏi câu này bà thứ lỗi cho, bà có người yêu là lính không?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: (ngập ngừng..., cười) Chắc cũng phải có chứ ạ!

-ÐQAThái: Bài thơ “Thương Ca 1” do bà sáng tác và Phạm Duy phổ nhạc, đã từ lâu trở thành của quần chúng. Nghĩa là, người ta hát say sưa mà không còn nhớ tới tên tác giả. Nếu tình cờ, ở một nơi chốn nào đó, bỗng nhiên nghe có người hát, có người nói tới bài thơ này, tâm trạng của bà sẽ ra sao?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Tôi vui chứ ạ. Vì tôi thấy tôi may mắn có người biết đến thơ của mình; mà thực sự khi làm thơ, tôi làm vì tôi thấy cần làm thôi, chứ không mang ước vọng có con mắt nào đó để ý đến thơ mình (cười).

-ÐQAThái: Bà có thể đọc cho nghe nguyên văn bài “Thương Ca 1”.

-Nhà thơ Lê Thị Ý:

“Ngày mai đi nhận xác chồng

Say đi để thấy mình không là mình

Say đi cho rõ người tình

Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ

Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ

Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son

Tình ta không thể vuông tròn

Say đi mà tưởng như còn người yêu

Phi cơ đáp xuống một chiều

Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa

Dài hơi hát khúc thương ca

Thân côi khép kín trong tà áo đen

Chao ơi thèm nụ hôn quen

Ðêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau

Chiếc quan tài phủ cờ màu

Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng

Em không thấy được xác chàng

Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?

Mùi hương cứ tưởng hơi chồng

Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.”


-ÐQAThái: Nếu dùng thơ để kết thúc cuộc phỏng vấn này, bà sẽ chọn những câu thơ nào?

-Nhà thơ Lê Thị Ý: Tôi muốn dùng hai câu thơ cuối của bài “Thương Ca 1” là “Mùi hương cứ tưởng hơi chồng, nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai”, để nói lên tâm trạng người góa phụ trong chiến tranh, trong nỗi đau tận cùng, cảm xúc như mình vẫn còn người mình yêu.

-ÐQAThái: Cám ơn bà đã nhắc nhớ lại một bài thơ bất hủ nói lên nỗi đau của con người và đất nước Việt Nam thời còn chinh chiến.

Thực hiện: Ðinh Quang Anh Thái/Người Việt
Girls Generation - Korean